1. Tội giết người và trách nhiệm bồi thường ?

Chào Luật sư của LVN Group, Tôi có vấn đề thắc mắc đó là : nếu tôi giết người , sau đó tôi ra tự thú để chịu trách nhiệm trước pháp luật hoặc tôi chết đi thì nếu theo đúng pháp luật thì gia đình của tôi có bắt buộc phải chịu trách nhiệm phải bồi thường bằng tiền cho phía nạn nhân không, nếu có thì việc bồi thường sẽ như thế nào?Có cách nào không phải bồi thường hay không?
Cảm ơn!

Trả lời:

Thứ nhất, Trong vụ án giết người, người thân thích của người bị hại có quyền yêu cầu Bị cáo phải bồi thường thiệt hại

Về nguyên tắc bồi thường được áp dụng theo quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự 2015

Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

“Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Như vậy, mức bồi thường về tổn thất tinh thần đã được tăng lên nhiều hơn so với quy định trước đây, bây giờ có thể yêu cầu không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Thứ hai, nếu gia đình không thể bồi thường theo quy định có thể thỏa thuận mức bồi thường với gia đình người bị hại.Nhưng trong trường hợp gia đình người bị hại không đồng ý thì gia đình bạn vẫn phải bồi thường thiệt hại theo quyết định của Tòa án.

2. Giết người, chiếm đoạt tài sản thì phải chịu bao nhiêu năm tù ?

Thưa Luật sư của LVN Group, xin hỏi: “ A kể với bạn trai là B (30 tuổi) về mâu thuẫn với bạn cùng thuê phòng trọ là C vì C có lần xúc phạm nhân phẩm của B. Nhân lúc A về quê, biết C ở phòng trọ một mình, B nảy sinh ý định gặp C để giải quyết mâu thuẫn.
Khoảng 10 giờ đêm, B đến phòng trọ của C giả vờ hỏi thăm A. Khi thấy các phòng trọ xung quanh mọi người đã ngủ hết, B bất ngờ dùng dây xiết cổ C đến khi C bất tỉnh. Nghĩ rằng C đã chết nên B lấy điện thoại và tiền trong túi xách của C rồi bỏ đi (số tài sản trị giá 7 triệu đồng). Được người xung quanh phát hiện đưa đi cấp cứu kịp thời nên C không chết. B bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội giết người theo khoản 1 điều 123 và tội cướp tài sản theo khoản 1 điều 168 bộ luật hình sự.

Câu hỏi:

1. Hãy xác định các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong tình huống trên.

2. Từ các dữ liệu đã cho, hãy xác định hình thức lỗi đối với hành vi phạm tội của B.

3. Hình phạt nặng nhất mà B có thể phải chịu là bao nhiêu năm tù.

4. Nếu B vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản (chưa được xóa án tích) lại có hành vi phạm tội theo tình huống nêu trên, thì trường hợp phạm tội của B được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.

Em xin chân thành cảm ơn ạ. Mong các Luật sư của LVN Group sẽ trả lời sớm giúp em.

Trả lời:

1. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là dấu hiệu thể hiện ra bên ngoài của tội phạm, diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Được thể hiện và xác định dựa trên các dấu hiệu: Hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu khách quan khác.

Trong tình huống trên, B bị truy cứu về tội giết người và tội cướp tài sản; nên ta sẽ xét mặt khác quan đối với từng loại tội.

– Hành vi phạm tội: A có hành vi dùng dây xiết cổ C và lấy trộm tài sản là tiền và điện thoại trong túi xách. Hành vi của A là hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quan hệ nhân thân và tài sản.

– Hậu quả: C ngất xỉu không chết, A mang tài sản do trộm cắp trốn chạy.

– Hành vi của A đã trực tiếp gây nguy hiểm đến tính mạng cho C nếu C không đi cấp cứu kịp thời, tài sản là tiền và điện thoại của C cũng được A lấy trộm mang đi.

– Địa điểm xảy ra là tạ nhà trọ của C vào lúc đêm tối, phương tiện phạm tội là sợi dây A dùng để xiết cổ C.

2. Yếu tố Lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành đó gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý.

Lỗi cố ý:

Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiêm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Tội cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Khi thực hiện hành vi xiết cổ và lấy trộm tài sản của C, A hoàn toàn đủ năng lực và ý thức để thấy rõ mức độ nguy hiểm của hành vi nhưng A vấn thực hiện. Nên yếu tố Lỗi của A được xác định là Lỗi cố ý.

3. Hình phạt nặng nhất của A

Căn cứ vào tình tiết của vụ án:

Tội giết người của A sẽ bị truy cứu ở khoản 2 điều 123 BLHS năm 2015 với mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Vì A không thuộc các trường hợp phạm tội giết người theo quy định tại khoản 1, mà tội của A tuy đã thực hiện nhưng C không chết nên có thể coi là phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

Đối với tội cướp tài sản, thì còn tùy thuộc vào mức tài sản mà A lấy trộm để có thể định khung hình phạt. Nhưng khung hình phạt cao nhất là từ 12 đến 20 năm khi giá trị tài sản mà A trộm cắp từ 500.000.000 đồng trở lên.

4. Xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi 2017 quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

A đã bị kết án tội trộm cắp tài sản 7 năm tù, đây là tội nghiêm trọng; trong trường hợp này tội phạm của A được xác định là tái phạm.

3. Quy định của luật hình sự về tội giết con mới đẻ?

Luật LVN Group tư vấn và giải đáp về quy định của luật hình sự về tội giết con mới đẻ :

Trả lời:

Căn cứ Điều 124 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định Tội giết con mới đẻ như sau:

Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Như vậy, đối với tội giết con mới đẻ, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này ngoài người mẹ của nạn nhân ra. Nhưng mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là chủ thể của tội phạm khi người mẹ vì bị ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó. Cụ thể ở đây, ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ, lạc hậu, lỗi thời và không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời; còn hoàn cảnh khách quan đặc biệt có thể là sau khi sinh, người mẹ không có đủ khả năng về mọi mặt để nuôi con của mình. Một vấn đề khác đặt ra ở đây đó là pháp luật không quy định đứa trẻ sinh ra trong bao nhiêu ngày thì gọi là mới đẻ. Xuất phát từ thực tiễn xét xử ở nước ta, đứa trẻ vừa mới ra đời bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa trẻ sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày tuổi.

Theo như thông tin mà bạn cung cấp cho chúng tôi, đứa trẻ 2 ngày tuổi đã bị chính mẹ ruột của mình vứt bỏ ở trong rừng và đã bị tử vong vì quá đói và quá rét; lý do người mẹ này vứt con vừa mới đẻ của mình là vì gia cảnh của cô rất nghèo khó không đủ điều kiện để nuôi đứa trẻ, ngoài ra người mẹ này vẫn còn đang là sinh viên trên ghế nhà trường, không những vậy lại còn bị chính bạn trai – bố của đứa trẻ ruồng bỏ. Xét về hoàn cảnh khách quan của người mẹ trong trường hợp này, đây quả thực là một hoàn cảnh khách quan đặc biệt: gia đình nghèo khổ không thể nuôi thêm được một đứa trẻ; người mẹ này vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường, vẫn còn phải đi học, vì thế gia đình lại càng không có đủ điều kiện để nuôi thêm một thành viên khác; bạn trai thì ruồng bỏ khi biết bạn gái có thai. Vì vậy, trong tình huống trên, người mẹ đã vứt bỏ đứa con vừa mới đẻ của mình khi người mẹ đang trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt; hơn nữa, đứa con bị vứt bỏ ở đây cũng mới có 2 ngày tuổi; hậu quả dẫn đến là đứa trẻ tử vong.

Như vậy, tất cả những tình tiết này đã hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu cơ bản thuộc mặt khách quan của Điều 124 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 quy định về tội giết con mới đẻ. Theo đó, căn cứ Điều 124 Bộ luật này, với hành vi vứt bỏ đứa con 2 ngày tuổi khi người mẹ đang trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt dẫn đến hậu quả đứa trẻ tử vong, người mẹ sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

4. Phân biệt tội giết người hay vô ý làm chết người ?

Thưa Luật sư của LVN Group, hiện nay trên thông tin truyền thông đang rất bàn bạc sôi nổi về vụ án của ca sĩ Châu Việt Cường. Tôi thấy rằng có nhiều quan điểm trái chiều. Tôi muốn Luật sư của LVN Group giúp tôi giải đáp để tôi hiểu rõ về lỗi vô ý giết người và cố ý giết người ?
Tôi xin cảm ơn!

Trả lời:

Theo điều 10 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về cố ý phạm tội:

“Điều 10. Cố ý phạm tội

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.”

Theo Điều 11 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định về vô ý phạm tội:

Điều 11. Vô ý phạm tội
Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”

Thứ nhất, dựa trên quy định của pháp luật, chúng tôi xin phân biệt lỗi vô ý và lỗi cố ý giết người như sau:

* Về nhận thức:

– Lỗi cố ý:

+ Người phạm tội nhận thức rõ hành vi mình đang thực hiện là nguy hiểm cho xã hội (cụ thể hành vi nguy hiểm ở đây là xâm hại đến tính mạng con người).

+ Người phạm tội nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra. Có nghĩa khi thực hiện hành vi, người thực hiện tội phạm biết trước được hậu quả chết người có thể xảy ra.

– Lỗi vô ý:

+ Người phạm tội cũng nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng nhận thức một cách mơ hồ.

+ Người phạm tội không nhận thức rõ hậu quả nguy hại cho xã hội có thể xảy ra mặc dù họ phải nhận được điều đó. Trong trường hợp này, ca sĩ Châu Việt Cường phải nhận thức được rằng hành vi dùng tỏi nhét vào miệng nạn nhân như vậy sẽ có thể dẫn đến hậu hậu quả nguy hại. Nhưng có thế do một vài nguyên nhân nên ca sĩ Châu Việt Cường không nhận thức được điều đó.

* Về hành vi:

– Lỗi cố ý:

+ Người phạm tội mong muốn thực hiện hành vi và mong muốn hậu quả xảy ra. Trong trường hợp này nghĩa là người thực hiện phạm tội mong muốn được thực hiện hành vi giết người và mong muốn nạn nhân chết.

– Lỗi vô ý:

+ Người phạm tội thực hiện hành vi nhưng không nghĩ rằng hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra và không mong muốn hậu qủa xả ra.

Thứ hai, sau khi phân tích sự khác biệt giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý, chúng tôi thấy được trường hợp của ca sĩ Châu Việt Cường phù hợp với lỗi vô ý làm chết người: Anh ấy đang trong trạng thái khả năng điều khiển hành vi do dùng chất kích thích (không phải là tình tiết giảm nhẹ trong vụ án của Châu Việt Cường) nhưng anh ấy đang nhận thức mơ hồ về hành vi nhét tỏi vào miệng cô gái là nguy hiểm đến tính mạng. Châu Việt Cường không mong muốn thực hiện hành vi giết người và cũng không mong muốn hậu quả chết người sẽ xảy ra tuy nhiên trên thực tế nạn nhân chết. Châu Việt Cường có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết ngườitheoĐiều 128 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017

“Điều 128. Tội vô ý làm chết người

1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Tuy nhiên, theo điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về suy đoán vô tội, chúng tôi thấy rằng Châu Việt Cường sẽ không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

” Điều 13. Suy đoán vô tội

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

5. Giết người không thành có bị truy cứu trách nhiệm hình sự ?

Thưa Luật sư của LVN Group , tôi làm công việc trông quán net. Cách đây không lâu , trong khi làm việc tôi bị một thanh niên chơi trong quán cầm dao tấn công mà không rõ nguyên do. Sáng nay , khi bắt dầu giờ làm , tôi lại bị thanh niên này ở quán net bên cạnh dùng dao tấn công vào phần đầu nhiều lần , rất may có người can ngăn kịp thời nên không nguy hiểm đến tính mạng .

Luật sư cho em hỏi : Những người tấn công em có bị truy tố về tội giết người không thành hay không?

Em xin chân thành cám ơn !

>>Luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến, gọi:1900.0191

Trả lời:

Căn cứ Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định về Tội giết người như sau:

Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Trong trường hợp của bạn, thanh niên này đã nhiều lần tấn công vào những bộ phận hiểm trên cơ thể bằng công cụ nguy hiểm ( dao) . Vì vậy , có thể kết luận , về mặt chủ quan anh ta cố ý xâm phạm đến tính mạng của bạn.
Qua nhiều lần tấn công bạn có thể thấy anh ta cố ý thực hiện tội phạm đến cùng nhưng do sự ngăn cản của mọi người xung quanh mà anh ta chưa thực hiện được điều đó anh ta tấn công vào đầu bạn gây thương tích nhưng vì nguyên nhân khách quan (do được cấp cứu kịp thời) mà chưa dẫn đến tử vong , do vậy anh ta phạm tội giết người ở giai đoạn đã đạt, chưa hoàn thành.
Vậy, người thanh niên này có thể bị truy tố về tội giết người theo điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 ở giai đoạn chưa hoàn thành .

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191hoặc gửi qua email: [email protected]để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận Luật sư hình sự – Công ty luật LVN Group