1. Quy định về tội phạm chiến tranh

Để bảo vệ người và tài sản, loại trừ hoặc hạn chế hậu quả không cần thiết trong các cuộc chiến tranh, Công ước Giơnevơ năm 1949 (bao gồm một bộ gồm 4 công ước) đã ra đời. Đó là Công ước về bảo vệ thường dân trong thời gian chiến tranh, Công ước về đối xử với tù binh và bệnh binh trong các quân đội thường trực, Công ước về bảo vệ thương binh, bệnh binh và những nạn nhân bị đắm tàu trong các đơn vị hải quân ở ngoài biển. Bất cứ hành vi nào vi phạm nghiêm trọng quy định của các Công ước này đều bị coi là tội phạm chiến tranh.

Nội luật hoá nội dung của các công ước, trong luật hình sự Việt Nam quy định tội phạm chiến tranh là tội phạm thuộc chương các tội phạm phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Theo đó tội phạm chiến tranh được xác định là hành vi ra lệnh hoặc trực tiếp tiến hành việc giết hại dân thường, người bị thương, tù binh, cướp phá tài sản, tàn phá các nơi dân cư, sử dụng các phương tiện hoặc phương pháp chiến tranh bị cấm cũng như là những hành vi khác vi phạm nghiêm trọng các điều ước quốc tế về vấn đề này mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.

Tội phạm chiến tranh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có tính quốc tế. Do vậy, đối với tội phạm này luật hình sự Việt Nam không chỉ quy định hình phạt rất nghiêm khắc (mức cao nhất là tử hình và mức thấp nhất là 10 năm tù) mà còn quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không giới hạn hiệu lực về không gian của Bộ luật hình sự.

2. Những quy định về các hoạt động trong chiến tranh

2.1 Các hoạt động khởi chiến

Từ thời Cổ đại đã hình thành tập quán tuyên chiến. Ngày nay, khi chiến tranh xâm lược bị đặt ra ngoài vòng pháp luật thì không thể quan niệm, tính hợp pháp của một cuộc chiến tranh dựa trên cơ sở của một sự tuyên chiến chính thức. Vấn đề tuyên bố chiến tranh có ý nghĩa thông báo tình trạng chiến tranh trong các mối quan hệ giữa các bên liên quan chứ không thể làm hợp pháp hoá một cuộc chiến tranh, nhất là việc tiến hành chiến tranh xâm lược quốc gia độc lập, có chủ quyền khác. Ngoài ra, ngay sau tuyên chiến, cần có thông báo ngay về tình trạng chiến tranh cho các quốc gia trung lập.

Kể từ thời điểm tuyên bố tình trạng chiến tranh, quan hệ giữa các bên liên quan đốì địch đã có những thay đổi to lớn, kéo theo những hậu quả pháp lý, ngoại giao nặng nề, như có quyền tịch thu tài sản quốc gia thù địch; áp dụng quy chế pháp lý đặc biệt, khẩn cấp đối với công dân và pháp nhân quốc gia thù địch; chấm dứt hiệu lực của các điều ước quốc tế thòi bình và bắt đầu áp dụng các quy phạm của luật quốc tế nhân đạo, đặc biệt các quy định của Công ước Geneva năm 1949 sẽ được áp dụng cho các thành viên hợp pháp của xung đột vũ trang.

2.2 Chiến trường

Trong quá trình xung đột vũ trang, cấc chiến quốc có thể tiến hành các hoạt động quân sự trong giới hạn không gian nhất định gọi là chiến trường. Khái niệm chiến trường gồm có các phần lãnh thổ trên đất liền, hải đảo, không trung và các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, kể cả phần biển cả và vùng trời trên biển cả, nơi mà lực lượng vũ trang có thổ tiến hành hoạt động quân sự. Tuy vậy, các chiến quốc không được biến các lãnh thổ của quốc gia trung lập, các lãnh thổ và không gian đã được trung lập hoá thành chiến trường. Các khu vực lãnh thổ quốc gia được dùng vào mục đích “vùng đặc biệt” theo luật quốc tế nhân đạo, như khu vực cứu thương, bệnh viện, trạm xá cũng có thể được loại ra khỏi chiến trường. Một số vùng lãnh thổ khác cũng có thể được loại ra khỏi chiến trường trên cơ sở các điều ước quốc tế, như các kênh đào quốc tế (ví dụ kênh Xuy-ê theo Hiệp định Constantinopole năm 1888), các trung tâm, cơ sở tập trung các giá trị văn hoá có ý nghĩa to lổn (Điều 8 Công ước Lahaye về bảo vệ giá trị văn hoá trong xung đột vũ trang), các hạng mục dân sự dân dụng.

Trong luật quốc tế nhân đạo cũng gặp không ít trường hợp cùng một lãnh thổ và không gian lại được tuyên bố là khu vực trung lập và phi quân sự hoá. Chẳng hạn, Nam cực (theo Công ước năm 1959 về Nam cực), Mặt Trăng và các thiên thể khác (Công ước năm 1967 về các nguyên tắc hoạt động của các quốc gia nhằm nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ, kể cả Mặt trăng và các thiên thể khác và Thoả thuận năm 1979 về hoạt động của các quốc gia tại Mặt Trăng và các thiên thể khác) là những lãnh thổ và không gian như vây. Đối với các khu vực này cần được loại trừ ra khỏi chiến trường. Đối với khu vực được tuyên bố là khu vực phi hạt nhân, nói chung không loại trừ ra khỏi phạm vi xung đột vũ trang nhưng chúng không thể trở thành chiến trường hạt nhân.

2.3 Các phương pháp, phương tiện chiến tranh bị cấm

Các phương pháp chiến tranh bị cấm gồm: Giết người hàíig loạt để trả thù hoặc đánh đập gây tàn phế cầc tù binh của đối phương; tấn công những người đã bị loại trừ khỏi vòng chiến đấu; bắt làm con tin; ra lệnh giết sạch, phá sạch, hoặc đe doạ làm như vậy hoặc tiến hành hoạt động công tác trên cơ sở đó; cưỡng chế phục vụ trong lực lượng vũ trang của đối phương; ném bom các đô thị không được bảo vệ và sử dụng các dấu hiệu bảo hộ quốc tế và dấu hiệu nhận biết của quốc gia trái công dụng của chúng.

Các phương tiên chiến tranh bị cấm được luật quốc tế nhân đạo xác định khá cụ thể, như cấm các loại đạn cháy và nổ và đạn chì hoặc có chứa những chất dễ chảy, dễ dính, trôi vào cơ thể người (các Tuyên bố năm 1868, 1899); lựu đạn có hơi ngạt, hơi độc hoặc các hơi tương tự (Nghị định thư Geneva năm 1925); các phương tiện độc tố và vi trùng (Điều 23 Quy chế năm 1907 về Luật lê chiến tranh; Nghị định thư Geneva năm 1925; Công ước năm 1972 về cấm nghiên cứu, sản xuất, từng trữ vũ khí hoá học và vi trùng và huỷ bỏ các vũ khí đó), đặc biệt là cấm sử dụng các phương tiên tác động lên môi trường tự nhiên để gây nên những hâu quả nghiêm trọng lâu dài trên một phạm vi rộng (Công ước năm 1977 cấm sử dụng các phương tiện tác động lên môi trường tự nhiên nhằm mục đích quân sự hoặc thù địch khác).

Luật quốc tế nhân đạo cũng cấm sử dụng một số dạng vũ khí thông thường nhưng có thể gây những đau đớn tột độ cho con người, cấm sử dụng bom cháy và tấn công thường dân hoặc các mục tiêu quân sự ở gần các khu dân cư; cấm sử dụng mìn sát thương mặt đất.

Đối với vũ khí nguyên tử, đây là vấn đề gây nhiều tranh luận. Tuy đến nay, luật quốc tế nhân đạo chưa có quy phạm pháp luật được thừa nhận chung về việc cám sử dụng loại vũ khí giết người hàng loạt này. Theo đề nghị của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Toà án quốc tế đã đã đưa ra kết luận việc áp dụng vũ khí nguyên tử cần phải được hạn chế và đặt dưới sự kiểm soất chặt chẽ của các quốc gia theo luật quốc tế nhân đạo.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)