được luật quốc tế định danh trong điều ước quốc tế nhưng thẩm quyền xét xử thuộc về quốc gia và theo luật hình sự quốc gia.

1. Quy định chung về tội phạm có tính chất quốc tế

Tội phạm có tính chất quốc tế còn được gọi là tội phạm điều ước quốc tế, bởi vì công đồng quốc tế muốn ngăn chặn và trừng phạt có hiệu quả loại tội phạm này chỉ có thể đạt được trong khuôn khổ ký kết các điều ước quốc tế. Các công ước đã được thông qua trong quá trình hợp tác quốc tế đề cập tới thành phần của nhóm tội phạm này đổng thời quy định nghĩa vụ của các nước thành viên phải bổ sung, sửa đổi các quy phạm tương ứng vào luật hình sự nước mình, đảm bảo sự phù hợp với các cam kết họ đã tự nguyện thực thi theo các điều ước quốc tế hữu quan.

Đối với các tội phạm có tính chất quốc tế, phán quyết được đưa ra dựa trên cơ sở pháp luật quốc gia có thẩm quyền, còn trong trường hợp tội phạm quốc tế (tội phạm theo luật quốc tế) thì Toà án quốc tế đưa ra phán quyết trực tiếp, dựa trên cơ sờ luật quốc tế, còn toà án quốc gia có thể có thẩm quyền thực thi công việc xét xử này nhưng phải dựa trên cơ sở luật quốc tế cũng như luật quốc gia.

2. Phân loại tội phạm có tính chất quốc tế

Việc phân loại tội phạm hình sự quốc tế nói riêng và tội phạm hình sự nói chung là một việc làm có tính kỹ thuật, là cơ sở để xác định tính chất nguy hiểm cùa các hành vi phạm tội. Thông qua việc phân loại tội phạm hình sự quốc tế, chúng ta sẽ xác định từng nhóm tội phạm hình sự quốc tế hay những tội phạm hình sự quốc tế đặc biệt nguy hiểm đang hoặc có khả năng trở thành vật cản chính đối với việc thực hiên các mục tiêu kinh tế, xã hội, là đối tượng đấu franh trên mặt trận bảo vệ trật tự pháp lý, dân chủ và nhân đạo.

Việc phân loại các tội phạm hình sự quốc tế phải được thực hiện dựa trên các cơ sở khoa học. Khoa học pháp lý quốc tế đã đưa ra các loại hình tội phạm hình sự quốc tế dựa trên các tiêu chí khác nhau. Hiện sự phân loại nói chung chỉ có tính “ước lệ”, theo quan điểm của từng học giả về luật hình sự quốc tế, bởi vì việc đưa ra một danh sách đầy đù, trọn vẹn các hành vi tội phạm hình sự quốc tế là không thể thực hiện được. Qua nghiên cứu, có thể thấy có các loại tội phạm hình sự quốc tế chủ yếu sau:

– Tội cướp biển;

– Tội buôn bán nô lệ và buôn bán con người;

– Tội phạm khủng bố quốc tế;

– Tội bắt cóc con tin;

– Tội phạm hàng không và hàng hải quốc tế;

– Tội buôn bán ma tuý và các chất hướng thần;

– Tội làm tiền giả.

3. Nội dung cơ bản của các điều ước quốc tế về chống tội phạm có tính chất quốc tế

3.1 Đối với tội phạm cướp biển

Hành vi cướp biển được coi là tội phạm hình sự bằng vũ lực chiếm đoạt tàu thuyền và tài sản trên tàu thuyền đã được biết đến từ thời kỳ cổ đại. Trong thời kỳ Trung đại đã hình thành một tập quán quốc tế coi hành vi cướp biển là Hostis Generis Humani – kẻ thù chung của nhân loại, với mối nguy hiểm nghiêm trọng, đe doạ hoạt động hàng hải nói chung. Chính vì vậy, trong luật quốc tế đã hình thành có tính truyền thống thực tiễn xử sự cho phép bất kỳ quốc gia nào cũng có thể thi hành thẩm quyền tài phán của mình đối với tội phạm cướp biển. Hiện nay, các hoạt động cướp biển diễn ngày càng nhiều, chủ yếu tập trung tại vùng biển Caribê, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa… gây ra sự bất ổn trong khu vực, qua đó có tác động và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của hàng hải quốc tế.

Từ thời điểm thông qua Công ước về biển cả năm 1958 trở về trước, các vấn đề đấu tranh chống nạn cướp biển được điều chỉnh chù yếu bằng các quy phạm tập quán quốc tế. Các quy phạm này đưa ra khái niêm về hành vi cướp biển, xác định các nghĩa vụ pháp lý quốc tế trừng trị tội phạm cướp biển, quy định nguyên tắc phổ cập về phân định thẩm quyền xét xử của các quốc gia với nội dung pháp lý, quốc gia bắt giữ tội phạm cướp biển trên khu vực biển cả (biển quốc tế) cũng có thẩm quyền xét xử đối với tội phạm này. Quá trình pháp điển hoá luật biển quốc tế đã đạt được những thành công nhất định, Công ước 1958 về biển cả đã đưa ra một định nghĩa mở rộng hơn so với định nghĩa truyền thống về hành vi cướp biển. Điều 15 Công ước quy định:

“Hành vi cướp biển là hành vi chiếm đoạt và cầm giữ bất hợp pháp tàu thuyền hoặc hành vi cướp bóc bất kỳ được thực hiện nhằm mục đích tư lợi, được đoàn thuỷ thủ hoặc hành khách của tàu thuyền hoặc phương tiện bay tư nhân thực hiện trên biển cả nhằm chống lại tàu thuyền hoặc phương tiện bay khác hay chống lại người và tài sản trên tàu thuyền hoặc phương tiện bay này, cũng như nhầm chống lại các đối tượng này ở địa điểm không thuộc quyền lực của bất kỳ quốc gia nào”.

Công ước 1958 quy định nghĩa vụ pháp lý của các quốc gia phải hợp tác với nhau đấu tranh chống nạn cướp biển. Mỗi quốc gia đều có quyền bắt giữ tàu thuyền và phương tiện bay đang thực hiện hành vi cướp biển trên vùng biển quốc tế hoặc khu vực không thuộc quyền lực của bất kỳ quốc gia nào. Phù hợp với nguyên tắc phổ cập, thẩm quyền xét xử sẽ thuộc về quốc gia bắt giữ tàu thuyền và phương tiện bay phạm tội cướp biển. Như vậy với nội dung của nguyên tắc phổ cập về thẩm quyền xét xử tội phạm cướp biển, vấn đề dẫn độ tội phạm là không cần thiết được đặt ra giữa các quốc gia hữu quan.

Các hành vi tương tự như trên của tàu nhà nước hoặc tàu chiến chỉ được coi là hành vi cướp biển trong trường hợp thuỷ thủ đoàn đã chiếm đoạt bất hợp pháp tàu nhà nước hoặc tàu chiến và sử dụng chúng vào mục đích cướp biển. Trong trường hợp bắt giữ mà không có cơ sở để chứng minh hành vi của tàu thuyền bị bắt giữ là hành vi cướp biển thì quốc gia bắt giữ tàu thuyền phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế trước quốc gia có tàu thuyền bị bắt giữ về những thiệt hại và tổn thất phát sinh do việc bắt giữ tàu mà không có cơ sở hợp pháp.

Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc đã ghi nhận lại các quy định của Công ước 1958 về biển cả trong đấu tranh phòng chống nạn cướp biển. Nội dung các quy định này được ghi nhận từ Điều 100 đến Điều 107 của Công ước về Luật biển năm 1982.

3.2 Đối với tội buôn bán nô lệ và con người

Vào đấu thế kỷ XIX, trong luật quốc gia của một số nước (như Luật của vương quốc Anh năm 1808) đã có các quy định cấm buôn bán nô lệ. Trong thời gian này, các quốc gia đã tích cực hoạt động chống buôn bán nô lệ bằng cách ký kết các điều ước quốc tế song phương hữu quan, đưa ra các biện pháp pháp lý ngăn ngừa và trừng trị tội phạm buôn bán nô lệ. Thực tiễn này tạo điềú kiện thuận lợi hình thành quy phạm tập quán quốc tế trong lĩnh vực chống buôn bán nô lệ.

Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên thống nhất cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ là Công ước Xanh – Giecmanh năm 1919. Cuộc chiến chống lại hiện tượng xấu xa này trong lịch sử của nhân loại đã thu được thành công tốt đẹp qua việc hợp tác quốc tế của các quốc gia mà dấu ấn là việc thông qua các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng sau đây:

– Công ước năm 1926 về vấn đề nô lệ;

– Nghị định thư bổ sung năm 1953 cho Cồng ước 1926;

– Công ước bổ sung 1956 về việc huỷ bỏ chế độ nô lê, buôn bán nô lệ, các cơ cấu và thực tiễn giống như chế độ nô lê;

– Công ước 1966 về quyền dân sự và chính trị (Điều 8).

Công ước 1926 đưa ra định nghĩa về tình trạng nô lệ và buôn bán nô lệ cùng nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc trừng phạt nghiêm khắc hành vi xâm phạm các quy định của Công ước. Công ước bổ sung 1956 cũng đưa ra các quy định tương tự, ngoài việc xác lập nghĩa vụ trừng phạt các hoạt động buôn bán nô lệ. Công ước còn ghi rõ các hành vi sau đây cũng là tội phạm:

– Hành vi ép buộc cá nhân vào tình trạng nô lệ;

– Khuyến khích thể nhân vào tình trạng nô lệ;

– Hành vi đẩy cá nhân khác vào tình trạng nô lệ.

Đồng thời tất cả các hành vi cố gắng thực hiện, hành vi đồng phạm và tham gia vào âm mưu tội phạm liên quan tới buôn bán nô lệ cũng phải bị trừng phạt.

Nhìn chung, các công ước về buôn bán nô lệ đều quy định, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau thủ tiêu tình trạng nô lệ và việc buôn bán nô lệ cũng như tất cả cơ cấu và thực tiên tương tự như chế độ nô lệ (tình trạng nô lệ). Ví dụ, việc chuyển giao người vợ cho người khác để lấy tiền, việc chuyển giao phụ nữ theo thừa kế cho người khác sau khi người chồng chết, việc chuyển giao những cá nhân dưới 18 tuổi cho người khác để lấy tiền. Các công ước cũng đã quy định rõ ràng: quốc gia thành viên có nghĩa vụ áp dụng các biên pháp cần thiết đưa vào luật nước mình các điều khoản trừng phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm luật lệ và quy định nghiêm cám tình trạng nô lệ và buôn bán nô lệ. Người nô lệ đã cư trú trên tàu của quốc gia thành viên Công ước sẽ được tự do.

Tội buôn bán người và các tội phạm có quan hê với việc khai thác người khác hành nghề mại dâm được điều chỉnh trong Công ước năm 1950 và các điều ước quốc tế năm 1904, năm 1910, năm 1921. Trong đó, Công ước năm 1950 thống nhất các quy định của những điều ước quốc tế được ban hành trước nó và có hiệu lực điều chỉnh các hành vi buôn người có tính “truyền thống”, cũng như các hình thức khái thác mại dâm, kể cả việc duy trì nhà chứa, tham gia quản lý hoặc tài trợ nhà chứa, cho thuê hoặc nhượng nhà cửa hoặc cơ sở khác mặc dù biết rằng các địa điểm này sẽ được sử dụng vào mục đích mại dâm. Công ước năm 1950 cũng quy định các hành vi tôi phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước là tội phạm phải bị dẫn độ theo các quy định của điều ước quốc tế chuyên môn về dẫn độ và luật quốc gia. Trong trường hợp không dẫn độ công dân nước mình, thì các quốc gia phải xét xử họ vì các hành vi tội phạm mà công dân nước mình thực hiện ở nước ngoài.

3.3 Đối với tội phạm khủng bố quốc tế

Hợp tác quốc tế trong cuộc đấu tranh chống khủng bố được khởi đầu trong hoạt động của Hội quốc liên. Vào năm 1937, tại Giơnevơ đã thông qua công ước về ngăn ngừa và trừng phạt khủng bố. Công ước đã liệt kê các hành vi được coi là hành vi khủng bố và phải bị trừng trị, như hành vi phá hoại; hành vi gây nguy hiểm cho nhiều người; việc vận chuyển, chuyển giao, sử dụng cố ý các giấy tờ giả mạo; các hành vi ám sát nguyên thủ quốc gia và các nhà lãnh đạo quốc gia khác… Theo một số công ước quốc tế, như Công ước ngăn chặn và trừng trị các hành vi tội phạm chống lại những cá nhân được hưởng quyền bảo hộ quốc tế, trong đó bao gồm cả viên chức ngoại giao năm 1973 thì các quốc gia – thành viên phải coi các hành vi sau đây là tội phạm:

– Hành vi cố ý giết hại, bắt cóc và các hành vi tấn công khác với cá nhân được hưởng sự bảo hộ của Công ước.

– Hành vi xâm phạm tới tự do của cá nhân được hưởng sự bảo hộ quốc tế.

– Hành vi tấn công bằng vũ lực, xâm hại dinh thự, nhà ở, các phương tiện giao thông và các hành vi này có quan hệ tới việc đe doạ quyền nhân thân và tự do của cá nhân.

Theo quy định của Công ước, các quốc gia thành viên phải quy định trong luật nước mình điều khoản trừng phạt nghiêm khắc các hành vi trên như đối với tôi phạm nghiêm trọng. Đổng thời các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp cần thiết xác lập thẩm quyền tài phán của mình trong trường hợp tội phạm được thực hiên trên lãnh thổ nước mình hoặc thủ phạm bị tình nghi là công dân nước mình hay bị cáo đang ở trên lãnh thổ nước mình và quốc gia này không dẫn độ để xét xử. Công ước không loại trừ việc áp dụng thẩm quyền xét xử hình sự của quốc gia bất kỳ căn cứ vào luật quốc gia. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong việc ngăn chặn tội phạm và giúp đỡ nhau trong Enh vực truy nã và trừng phạt tội phạm.

Vấn đề đấu tranh chống khủng bố quốc tế là vấn đề được cộng đồng quốc tế rất quan tâm. Các quốc gia đã có nhiều cố gắng điều chỉnh thống nhất vấn đề có tính toàn cầu này.

Công ước 1997 về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế bằng bom quy định hành vi khủng bố bằng bom là hành vi đặt, để, ném bom hoặc làm nổ một cách bất hợp pháp và cố ý thiết bị gây nổ hoặc gây nổ chết người khác tại, vào hoặc chống lại địa điểm công cộng, trang thiết bị nhà nước, hệ thống giao thông công cộng hoặc cơ sở hạ tầng nhằm mục đích giết người hoặc gây thương tích nghiêm trọng cho thân thể hoặc nhằm mục đích phá hoại địa điểm, trang thiết bị hay hệ thống giao thông công cộng… trên quy mô lớn hoặc có thể dẫn đến những tổn thất to lớn về kinh tế. Công ước này sẽ không được áp dụng nếu tội phạm được thực hiện trong lãnh thổ một quốc gia, thù phạm tình nghi và nạn nhân là công dân của chính quốc gia này hoặc thủ phạm tình nghi bị phát hiện trên lãnh thổ của quốc gia đó và không có quốc gia nào có thẩm quyền xét xử theo quy định của công ước. Công ước quy định mỗi quốc gia thành viên có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để xác định thẩm quyền xét xử cùa mình đối với tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước, Công ước sử dụng nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch chủ động và quốc tịch thụ động, nguyên tắc bảo đảm an ninh quốc gia để giải quyết vấn đề thẩm quyền xét xử tội phạm khủng bố bằng bom. Theo quy định về dẫn độ của Công ước thì tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước có thể bị dẫn độ theo bất kỳ điều ước quốc tế chuyên môn về dẫn độ được ký kết giữa các quốc gia thành viên. Các quốc gia thành viên cam kết ghi nhận các tội phạm khủng bố bằng bom vào danh mục tội phạm bị dẫn độ trong các điều ước quốc tế về dẫn độ sẽ được ký kết giữa các bên hữu quan đổng thời công ước cũng tạo khả năng cho các quốc gia thành viên công nhận tuỳ ý công ước về chôhg khủng bố bằng bom là cơ sở pháp lý để dẫn độ tội phạm và khi đó mọi trình tự, thủ tục, điều kiện về dẫn độ phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật quốc gia được yêu cầu.

Công ước năm 1999 về ngăn ngừa và trừng tri hành vi tài trợ cho khủng bố, theo Điều 2 quy định hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước là các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp bất họp pháp và cố ý cung cấp hay huy động nguồn tài chính, nhằm mục đích sử dụng hoặc ý thức được rằng, nguồn tài chính được sử dụng một phần hay toàn bộ nhằm thực hiện bất kỳ hành vi nào là hành vi tội phạm trong phạm vi điều chỉnh và được định nghĩa trong các điều ước quốc tế về chống khủng bố quốc tế để giết hại hoặc làm bị thương bất kỳ cá nhân nào với ý định hăm doạ hay ép buộc dân chúng phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi cụ thể.

Công ước được áp dụng khi hành vi tội phạm được thực hiện trong phạm vi vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia hay thù phạm tình nghi không phải là công dân của nước, nơi có hành vi tội phạm được thực hiên hoặc có cơ sở để khẳng định thẩm quyền xét xử của quốc gia theo quy định của Công ước. Quốc gia có thẩm quyền xét xử được quy định theo các nguyên tắc lãnh thổ, quốc tích, nguyên tắc đàm bảo an ninh quốc gia, quốc gia đăng tích phương tiện bay hoặc tàu thuyền… Ngoài ra, Công ước quy định, mỗi quốc gia thành viên phải áp dụng những biên pháp cần thiết để xác định thẩm quyền tài phán đối với các tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Quy định về dẫn độ tội phạm có nội dung tương tự như các công ước quốc tế khác về ngăn ngừa và trừng trị tội phạm khủng bố quốc tế.

3.4 Tội phạm bắt cóc con tin

Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề bắt cóc con tin trở thành hiện tượng phổ biển trong đời sống dân sự quốc tế. Hoạt động phạm tội này trở thành phương thức tác nghiệp của các băng nhóm vũ trang, tổ chức vũ trang ly khai và tổ chức tội phạm. Việc cần thiết phải thông qua một điều ước quốc tế đấu tranh chống tội phạm bắt cóc con tin trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Vào năm 1979, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về đấu tranh chống bắt cóc con tin. Theo quy định của Công ước thì các hành vi bắt cóc và cầm giữ con tin cùng với sự đe doạ giết hại con tin, hành vi gây thương tích hoặc tiếp tục cầm giữ con tin nhằm mục đích đòi hỏi bên thứ ba thực hiện hành vi nào đó như là điều kiện trực tiếp hoặc gián tiếp để phóng thích con tin đều bị coi là tội phạm. Ngoài ra, các hành vi cố gắng thực hiện và hành vi đồng phạm với các hành vi nêu trên cũng được thừa nhận là tôi phạm hình sự. Theo Công ước, bên thứ ba trong mối quan hệ này là quốc gia, tổ chức quốc tế, thể nhân và pháp nhân hoặc một nhóm cá nhân. Các quốc quốc gia thành viên công ước phải quy định trong pháp luật nước mình sự trừng phạt đối với tội phạm bắt cóc con tin như đối với tội phạm nghiêm trọng. Các quốc gia thành viên trong quá trình tương trợ đấu tranh để chống tội phạm bắt cóc con tin phải có nghĩa vụ hợp tác với nhau để ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm loại này.

3.5 Tội phạm hàng không và hàng hải quốc tế

+ Tội phạm đe doạ an ninh hàng không dân dụng

Từ những trường hợp chiếm đoạt bất hợp pháp phương tiện bay vào thập kỷ sáu mươi đã dẫn đến sự ra đòi của Công ước Tôkyô 1963 về tội phạm và các hành vi khác thực hiện trên phương tiện bay. Công ước có hiệu lực điều chỉnh các tội phạm hình sự, và các hành vi được thực hiện trên phương tiện bay và có thể gây ra hoặc gây ra nguy hiểm cho an ninh của phương tiện bay, người và tài sản trên phương tiện bay, vi phạm trật tự kỷ luật được quy định trên phương tiên bay.

Trong vấn đề xác định thẩm quyền tài phán, Công ước quy định quốc gia đăng tịch phương tiên bay có thẩm quyền đối với các hành vi phạm tội được thực hiện trên máy bay. Quốc gia này có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết xác định thẩm quyền tài phán của mình. Tuy nhiên, các quốc gia khác cũng có quyền đòi hỏi xác lập thẩm quyền của mình trong các trường hợp sau đây:

+ Hậu quả của hành vi tội phạm xuất hiện trên lãnh thổ nước mình;

+ Hành vi tội phạm xâm hại tới an ninh do công dân nước mình thực hiện;

+ Hành vi xâm hại các quy tắc bay hàng không được quy định ở các nước này;

+ Việc xác định thẩm quyên tài phán là cần thiết đối với việc thi hành nghĩa vụ quốc tế của các nước này.

Công ước Tôkyô 1963 không có quy đình trực tiếp về vấn đề dẫn độ tội phạm hàng không mà chỉ dẫn chiếu gián tiếp tói các điều ước quốc tế chuyên môn về dẫn độ giữa các quốc gia thành viên.

Vào những thập kỷ bảy mươi và thập kỷ tám mươi, cộng đổng quốc tế đã thông qua các cồhg ước khác về đảm bảo an ninh hàng không dân dụng quốc tế, có chứa đựng các quy phạm về dẫn độ tội phạm, cụ thể là các công ước Lahaye 1970 về ngăn ngừa các hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp phương tiện bay, Công ước Montrean 1970 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp đe doạ an ninh hàng không dân dụng và Nghị định thư 1988 bổ sung cho Công ước này.

Công ước Lahaye 1970 thừa nhận các hành vi bất hợp pháp được cá nhân bất kỳ thực hiện trên máy bay, nhằm mục đích chiếm đoạt hay dành quyền kiểm soát máy bay bằng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực và hình thức bạo lực khác là tội phạm. Theo quy định của Công ước Montrean 1971, bất kỳ cá nhân nào cũng được coi là thực hiện hành vi tội phạm nếu cá nhân này thực hiện bất hợp pháp và cố ý hành vi bạo lực đối với người khác đang ở trên máy bay trong thời gian baý, đe doạ an ninh của chuyến bay. Cũng được coi là tội phạm đối với các hành vi đe doạ an ninh của máy bay trong chuyến bay, khi cá nhân phá hoại máy bay đang trong thòi gian khai thác (thời gian phục vụ), các hành vi đặt, để các vật thể trong máy bay đang trong thời gian khai thác mà có khả năng phá hoại hoặc gây rối loạn cho máy bay, các hành vi phá hoại hay gây thiệt hại cho các trang thiết bị vận hành hàng không, các hành vi đưa thông tin không đúng sự thật có thể đe doạ an ninh của máy bay trong khi bay.

Cả hai Công ước Lahaye và Montrean đềư ghi nhận thẩm quyền tài phán phổ cập, khi thù phạm bị tình nghi đang có mặt trên lãnh thổ của một trong các quốc gia thành viên. Ngoài ra, thẩm quyền xét xử của quốc gia đăng tịch máy bay, thẩm quyền của quốc gia nơi máy bay hạ cánh có thủ phạm bị tình nghi đang ở trên máy bay được thừa nhận.

Vấn đề dẫn độ tội phạm được điều chỉnh trên cơ sở aut dedere aut punire (hoặc dẫn độ hoặc xét xử). Phù hợp với nguyên tắc này, quốc gia nơi đang có kẻ phạm tội, phải cầm giữ và đảm bảo sự có mặt cùa người này bằng các biện pháp theo quy định của luật quốc gia. Nếu quốc gia không dẫn độ tội phạm thì phải có nghĩa vụ chuyển giao kẻ phạm tội cho cơ quan có thẩm quyền của mình để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề chung về dẫn độ được giải quyết giống như trong Công ước 1973 về bảo hộ quốc tế đối với các cá nhân được hưởng sự bảo hộ này.

+ Tội phạm đe doạ an ninh hàng hải

Các tội phạm này được ghi nhận trong Công ước Rôma 1988 về đấu tranh chống các hành vi bất hợp pháp nhằm vào an ninh hàng hải và Nghị định thư 1988 về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an ninh của các dàn khoan dầu được xây dựng trên thềm lục địa.

Hai điều ước quốc tế trên quy định hành vi tội phạm là các hành vi bất hợp pháp và cố ý chiếm đoạt tàu thuyền và dàn khoan dầu cũng như đe doạ an ninh hàng hải của tàu thuyền hoặc an ninh của dàn khoan dầu. Nhìn chung, danh sách các hành vi tội phạm đe doạ an ninh hàng hải giống như các hành vi đã được ghi nhân trong Công ước Montrean 1971.

Thẩm quyền tài phán là thẩm quyền phổ cập được ghi nhân với nội dung tương tự như trong hai công ước về hàng không dân dụng, tiếp theo là thẩm quyền nước treo cờ, thẩm quyền lãnh thổ và thẩm quyền quốc tịch cũng được quy định trong Công ước Rôma 1988. Vấn đề dẫn độ tội phạm cũng được giải quyết theo các quy định giống như nội dung của Công ước 1973.

Trong bộ luật hình sự của mình, mỗi quốc gia thành viên có nghĩa vụ quy định trừng phạt các hành vi tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của mình như là các hành tội phạm có tính chất nghiêm trọng.

3.6 Tội buôn bán bất hợp pháp ma tuý

Sự hợp tác quốc tế trong việc đấu tranh chống các hành vi bất hợp pháp phổ biển các chất ma tuý được bắt đầu vào thế kỷ XX. Điều ước quốc tế đầu tiên về vấn đề này được ký vào năm 1912 tại Lahaye. Các nguyên tắc của điều ước này được ghi lại và phát triển ở các điều ước quốc tế sau này, trong đó phải kể đến:

– Công ước duy nhất năm 1961 về các chất ma tuý, đang có hiệu lực hiện hành và thay thế các điều ước quốc tế trên trong quan hệ giữa các quốc gia thành viên của công ước này;

– Công ước 1971 về các chất hướng thần;

– Công ước Liên hợp quốc 1988 về ngăn chặn lưu thông bất hợp pháp các chất ma tuý và hướng thần.

Các công ước kể trên công nhận sự cần thiết phải sử dụng các chất ma tuý và hướng thần vì mục đích y học và các mục đích hợp pháp khác và nghiêm cấm việc lạm dụng các chất cũng như sản phẩm này. Việc áp dụng các quy tắc trên vào cuộc sống đã tạo ra tiền đề cần thiết phải xác định số lượng tiêu thụ các chất ma tuý của các quốc gia đồng thời cần thiết phải kiểm soát quá trình sản xuất và sử dụng chúng. Các công ước cũng quy định nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc đấu tranh với các hoạt động bất hợp pháp phổ biến các chất ma tuý.

Theo quy định chung của các điều ước quốc tế này, thì chất ma tuý là chất tự nhiên hoặc tổng hợp được quy định trong danh mục I và II của Công ước 1961, còn chất hướng thần là các chất tự nhiên hoặc tổng hợp hay khoáng vật thiên nhiên được xếp trong danh mục từ I đến IV của Công ước 1971. Danh sách này có thể được bổ sung thêm các chất mới theo một thủ tục quy định.

Cơ quan quốc tế kiểm soát quá trình sản xuất và lưu thông các chất ma tuý và hướng thần là Uỷ ban về chất ma tuý của Hội đồng kinh tế-xã hội Liên hợp quốc và Ưỷ ban quốc tế về kiểm soát chất ma tuý.

Các quốc gia thành viên Công ước 1961 sẽ đệ trình các số liệu thống kê về sản xuất, chế biến và sử dụng các chất ma tuý; việc sử dụng các chất này để sản xuất các chế phẩm khác, việc nhập xuất khẩu và số lượng tồn kho vào ngày 31/12 mỗi năm cho Uỷ ban quốc tế về kiểm soát chất ma tuý. Ngoài ra, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ hàng năm gửi cho uỷ ban này số liệu nhu cầu sử dụng các chất ma tuý và hướng thần vào mục đích khoa học và y học, trong trường hợp không nộp đúng thời hạn số liệu theo yêu cầu trên thì Uỷ ban có quyền độc lập tiến hành việc lập các số liệu về nhu cầu sử dụng này. Uỷ ban có thể khuyến nghị các quốc gia tạm đình chỉ việc xuất khẩu các chất ma tuý nếu Uỷ ban cho là cần thiết.

Công ước quy định rằng các quốc gia thành viên sẽ thừa nhận các hành vi xâm phạm các quy định của công ước được cố ý thực hiện là tội phạm phải bị trừng phạt bằng luật hình. Các vi phạm nghiêm trọng cần phải bị trừng trị thích hợp, kể cả mức án tù cũng được áp dụng.

Kỳ họp thứ XVII cùa Đại hội đồng Liên hợp quốc vào năm 1990 đã thông qua tuyên bố chính trị và chương trình hành động toàn thế giới về hợp tác quốc tế đấu tranh chống việc sản xuất, cất giữ, lưu thông và phổ biến bất hợp pháp các chất ma tuý và hướng thần. Trong tuyên bố đã ghi nhận lại các quy định của Công ước 1961, Công ước 1971 và Công ước 1988; các biện pháp tích cực do văn phòng chống ma tuý của Ban thư ký Liên hợp quốc, Uỷ ban kiểm soát ma tuý và quỹ Liên hợp quốc chôhg lạm dụng chất ma tuý thi hành đã được đánh giá cao. Tuyên bố đã đưa ra chương trình mười năm chống lạm dụng chất ma tuý, từ năm 1991 đến năm 2000.

Chương trình hành động toàn thế giới xác định các biện pháp đấu tranh chống lạm dụng ma tuý và lưu thông buôn bán bất hợp pháp các chất này ở ba cấp độ, quốc gia, khu vực và quốc tế toàn cầu, với các phương hướng hành động như sau:

– Ngăn chặn và chấm dứt việc lạm dụng ma tuý nhằm mục đích thanh toán nhu cầu bất hợp pháp đối với chất ma tuý và hướng thần;

– Điều trị, tái ổn định và hoà nhập cộng đổng cho người mắc nghiên;

– Kiểm soát việc cung cấp các chất ma tuý và hướng thần;

– Thủ tiêu việc lưu thông buôn bán bất hợp pháp các chất hướng thần và ma túy;

– Xác lập các biện pháp ngăn ngừa việc “tẩy rửa” tiền thu được từ buôn bán ma tuý;

– Củng cố chặt chẽ các hê thống tư pháp và pháp luật.

3.6 Đối với tội làm tiền giả

Làm tiền giả là một trong các tội phạm hình sự có tính chất quốc tế truyền thống và lâu đời. Trong lịch sử phát triển của nhân loại các loại hình giá trị khác nhau như vàng, bạc, và các kim loại quý khác được sử dụng như là phương tiện thanh toán và trong thực tế đã bị làm giả rất nhiều. Mức độ đó tăng trưởng càng nhanh chóng khi tiền giấy được phát hành và đưa vào lưu thông. Chính vì vậy, pháp luật của An Độ, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã cổ đại đã có quy định mức trừng phạt nghiêm khắc đối với tội làm tiền giả, kể cả mức án tử hình.

Tôi phạm làm tiền giả không chỉ là các cá nhân, các băng đảng tội phạm mà còn bao gổm cả quốc gia muốn bằng biện pháp này phá hoại sự ổn định kinh tế của nước khác hoặc làm suy yếu đối phương trong thời kỳ chiến tranh, như nước Đức đã in và đưa ra phát hành bí mật đồng bảng Anh trong thời kỳ Đại chiến thế giới thứ II. Theo pháp luật các quốc gia, tội làm tiền giả đã và đang bị trừng phạt nghiêm khắc bằng hình luật của các nước hữu quan. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế chống tội phạm làm tiền giả, cộng đồng các quốc gia đã nỗ lực trong quá trình soạn thảo và thông qua Công ước Giơnevơ về chống làm tiền giả năm 1929. Theo quy định của Công ước, thuật ngữ “đồng tiền” được hiểu là các loại tiền giấy, kể cả các loại phiếu do ngân hàng phát hành và tiền bằng kim loại đã được lưu hành theo quy định của pháp luật. Như vậy, tội làm tiền giả chỉ được coi là hành vi làm giả đồng tiền đã được đưa vào lưu thông tiền tệ.

Theo Điều 3 của Công ước, cần phải trừng phạt các hành vi tội phạm sau đây như là tội phạm hình sự thông thường:

– Tất cả các hành vi lừa dối trong sản xuất và làm thay đổi đồng tiền, không kể đến phương thức nào được sử dụng để đạt được mục đích;

– Hành vi tiêu thụ tiền giả;

-Các hành vi nhằm tiêu thụ, vận chuyển vào trong nước hoặc tiếp nhận hay tìm kiếm tiền giả cho mình, với điều kiện tính chất làm giả của đồng tiền phải rõ ràng;

– Hành vi đồng phạm có ý thức;

– Các hành vi lừa dối trong chế tạo, tiếp nhận hoặc cung cấp các trang thiết bị, dụng cụ nhằm mục đích in ấn tiền giả.

Công ước đưa ra quy định ở Điều 5, nghĩa vụ bắt buộc phải trừng phạt tội phạm làm tiền giả ở mức trừng trị như nhau, không phụ thuộc vào việc làm giả đồng tiền trong nước hay đồng tiền nước ngoài. Các điều khoản về thẩm quyền xét xử ghi nhận rằng các quốc gia nếu không dẫn độ công dân của mình thì phải có nghĩa vụ trừng trị bằng luật hình sự, như là hành vi tội phạm được thực hiện trên lãnh thổ nước mình, thậm chí ngay cả khi tội phạm có được quốc tịch nước này, sau khi đã thực hiện tội làm tiền giả. Đối với người nước ngoài đã thực hiện tội phạm ở ngoài lãnh thổ quốc gia thì quốc gia phải có nghĩa vụ truy cứu trách nhiêm hình sự dựa trên cơ sở nguyên tắc phổ cập nếu dẫn độ không thể được tiến hành vì các nguyên nhân không liên quan đến hành vi tội phạm. Cồng ước cũng quy định phải xác định hành vi làm tiền giả là tội phạm phải dẫn độ và các quốc gia phải giúp đỡ lẫn nhau trong vấn đề này. Công ước còn khuyến nghị các quốc gia thành viên công nhận các phán quyết nước ngoài là cơ sở để khẳng định tính tái phạm cùa kẻ phạm tội.

Công ước Giơnevơ 1929 về đấu tranh chống làm tiền giả có vai trò quan trọng trong cuộc chiến ngăn chặn và trừng trị một trong các tội phạm hình sự quốc tế vô cùng nguy hiểm – tội làm tiền giả. Tuy vậy, Công ước cũng còn có điểm yếu nhất định của mình, khi không bao quát hết được các hành vi sản xuất và lưu thông các loại hình giá trị khác. Sự thiếu sót này của Công ước được sửa chữa và bổ sung tại các văn bản pháp lý quốc gia và điều ước quốc tế song phương hữu quan.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)