1. Khái niệm nhân thân
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác, hiện nay khái niệm quyền nhân thân được quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Khái niệm tội xâm phạm nhân thân
Tội xâm phạm nhân thân là nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự cũng như các quyền tự do, dân chủ của người khác.
3. Các tội phạm xâm phạm tính mạng
Các tội xâm phạm tính mạng là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của người khác.
Trong BLHS năm 2015,sửa đổi bổ sung năm 2017 có 13 tội danh thuộc nhóm tội phạm này. Đó là:
– Tội giết người (Điều 123 BLHS); Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS);
– Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS);
– Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 BLHS);
– Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS);
– Tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS); .
– Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129 BLHS);
– Tội bức tử (Điều 130 BLHS);
– Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS);
– Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132 BLHS);
– Tội đe dọa giết người (Điều 133 BLHS);
– Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS);
– Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 149 BLHS). Trong các tội danh nêu trên, hai tội danh cuối được quy định lần đầu trong BLHS năm 1999. Sự bổ sung này là cần thiết dựa trên các cơ sở thực tế. Đó là:
– Thứ nhất, tình trạng nhiễm HIV ở Việt Nam cũng như trên thế giới hiện nay
– Thứ hai, khả năng xảy ra hành vi cố ý lây truyền cũng như hành vi cố ý truyền HIV ở Việt Nam hiện nay và
– Thứ ba, tính nguy hiểm m của những hành vi này trong điều kiện khả năng cứu chữa người mắc căn bệnh HIV/AIDS của thế giới và Việt Nam hiện nay. Hành vi phạm tội của hai tội danh này có tính nguy đến tính mạng của người bị lây hiểm ấy nhiễm HIV nên có thể được xếp vào nhóm các tội xâm phạm tính mạng.
Các yếu tố cấu thành tội phạm
– Khách thế của tội phạm Khách thể của nhóm tội phạm này là một trong những khách thế quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Khách thể của nhóm tội phạm này được phản ánh trong BLHS qua dấu hiệu đối tượng tác động của tội phạm.
– Đối tượng tác động của nhóm tội phạm này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng. Đó là những người đang sống, những người đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con người, là thực thể tự nhiên và xã hội mà trong BLHS được gọi là “người khác”.
Mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan của các tội xâm phạm tính mạng tuy khác nhau ở hình thức thể hiện cụ thể nhưng có cùng tính chất là đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đó. Hành vi này được mô tả là dấu hiệu thuộc mặt khách quan trong tất cả các CTTP. Trong những hành vi phạm tội của nhóm tội này có những hành vi có thể được thực hiện cả bằng hình thức hành động và không hành động (như hành vi của tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS), và có hành vi chỉ có thể được thực hiện bằng hình thức không hành động hành vi của tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 132 BLHS).
– Hậu quả mà những hành vi nói trên (trừ hành vi được quy định tại Điều 133) có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra là thiệt hại đến quyền sống của con người, thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là chết người.
Chủ thể của tội phạm
– Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm tính phải là chủ thể đặc biệt.
– Những người có năng lực TNHS đều có khả năng trở thành chủ thể của nhiều tội thuộc nhóm tội phạm này. Trong các tội xâm phạm tính mạng có 4 tội danh mà CTTP có sự phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội phạm.
– Động cơ phạm tội của nhóm tội phạm này tương đối đa dạng nhưng chỉ được phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp trong một số CTTP như CTTP được quy định tại Điều 124 BLHS.
Hình phạt
– Hình phạt chính được quy định cho các tội xâm phạm tính mạng có nhiều mức độ khác nhau. Hình phạt thấp nhất là cảnh cáo và cao nhất là tử hình. Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung được quy định ở 05 tội danh. Đó là tội giết người, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và tội cố ý truyền HIV cho người khác.
– Hình phạt bổ sung được quy định cho 05 tội danh này là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Riêng ở tội giết người còn có thêm hình phạt bổ sung là hình phạt quản chế và hình phạt cấm cư trú.
4. Các tội phạm xâm phạm sức khỏe
Khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe
– Các tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. BLHS quy định 07 tội phạm thuộc nhóm tội phạm này. Đó là: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS);
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần i thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 BLHS);
– Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS);
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138 BLHS);
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139 BLHS);
Các yếu tố cấu thành tội phạm
– Khách thể của tội phạm: Khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe. Đối tượng tác động của nhóm tội này cũng giống như đối tượng tác động của nhóm tội xâm phạm tính mạng. Đó là những người đang sông, đang tồn tại với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội nên có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe.
Mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan của các tội xâm phạm sức khỏe những hành vi có tính chất cây tốn gây hại cho sức khỏe của con người. Những hành vi đó có thể là hành động hoặc có thể là không hành động.
– Hậu quả của hành vi khách quan nói trên là thiệt hại gây ra cho quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe.
– Trong nhóm các tội xâm phạm sức khỏe của người khác có hai tội mà chủ thể thực hiện là chủ thể đặc biệt. Ngoài dấu hiệu năng lực TNHS, chủ thể ở hai tội phạm này còn có đặc điểm là người có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân, trong đó nạn nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội (Điều 140 BLHS) hoặc là người đang thi hành công vụ (Điều 137 BLHS).
– Động cơ phạm tội tương đối đa dạng nhưng chỉ có 01 CTTP được quy định tại Điều 136 BLHS mô tả động cơ phạm tội.
Hình phạt
– Hình phạt chính được quy định cho các tội xâm phạm sức khỏe có các mức độ khác nhau. Hình phạt thấp nhất là cảnh cáo, cao nhất là tù chung thân. Trong số 07 tội của nhóm tội phạm này có 01 tội được quy định luôn luôn là tội phạm ít nghiêm trọng (Điều 138 u 138 BLHS); 01 tội được quy định có thể là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 134 BLHS). Các tội còn lại được quy định có thể là tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng.
– Ngoài hình phạt chính, hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định được quy định ở 2 tội trong nhóm tội phạm này (Điều 137 và Điều 139 BLHS).
5. Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự
– Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS);
– Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS);
– Tội cưỡng dâm (Điều 143 BLHS); Tôi cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi Điều 144 BLHS);
– Tôi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS);
– Tôi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS);
– Tội mua bán người (Điều 150 BLHS);
– Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151);
– Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152 BLHS);
– Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 BLHS);
– Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154 BLHS);
– Tội làm nhục người khác (Điều 155 BLHS);
– Tội vu khống (Điều 156 BLHS).
Các tội phạm trong nhóm tội này có những đặc điểm chung sau: Hành vi phạm tội của tất cả các tội trong nhóm đều dưới dạng hành động phạm tội.
– Hậu quả của những hành vi phạm tội là những thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh dự của con người thế hiện dưới dạng những thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, thiệt hại tinh thần không được quy định là dấu hiệu trong tất cả các CTTP của nhóm tội phạm này. dạng hành động phạm tội. Chủ thể của tội phạm trong nhóm tội này có thế là chủ thả bình thường hoặc chủ thể có dấu hiệu đặc biệt.
– Trong nội dung trình bày về dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể, dâu hiệu chủ thể của tội phạm chỉ được trình bày khi chủ thể của tội phạm có dấu hiệu đặc biệt. Lỗi ở tất cả các tội phạm thuộc nhóm tội này đều là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi của mình xâm hại nhân phẩm, danh dự của người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm đạt mục đích của mình.
– Hình phạt quy định cho nhóm tội này có mức cao nhất là tử hình. Ngoài hình phạt chính, nhiều điều luật của nhóm tội phạm này còn quy định hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; phạt tiền; phạt quản chế; cấm cư trú; tịch thu tài sản
Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền tự do của con người, quyền do, dân chủ của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo tự vệ.
Khách thể của tội phạm
– Khách thể của nhóm tội này là những quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ bị hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc đe doa gây thiệt hại.
– Mặt khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của các tội trong nhóm tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân được thực hiện trong thực tế rất đa dạng và dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chủ thể của tội phạm
– Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm quyên tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân là chủ thể bình thường, là người có năng lực TNHS. Tuy nhiên, có một số tội đòi hỏi chủ thể ngoài dấu hiệu của chủ thể bình thường phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác như dấu hiệu “người có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử, tổ chức trưng cầu ý dân” trong tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161 BLHS)…
Hình phạt
– Hình phạt của nhóm tội này có mức cao nhất là 12 năm; mức thấp nhất là cảnh cáo. Trừ trường hợp phạm tội được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 157 BLHS; Khoản 2 Điều 158 BLHS; Khoản 2 Điều 166 BLHS và Khoản 2 Điều 167 BLHS, tất cả những trường hợp còn lại trong nhóm này đều là tội ít nghiêm trọng.
– Hình phạt chính được quy định ở tất cả các tội đều là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Chỉ có một số tội như tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (Điều 159 BLHS); tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) và tội xâm phạm quyền bình đẳng giới (Điều 165 BLHS) là những tội có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính.
6. Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Trong BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017, các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân được quy định tại Chương XV. Theo đó có 11 tội thuộc nhóm tội này, đó là các tội
– Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS)
– Tội xâm phạm chỗ ở của người khác (Điều 158 BLHS)
– Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác( (Điều 159 BLHS);
– Tội xâm phạm quyền công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160 BLHS);
– Tội làm sai lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý đân (Điều 161 BLHS);
– Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS);
– Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân (Điền 163 BLHS);
– Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác (Điều 164);
– Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới (Điều 165 BLHS);
– Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS);
– Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân (Điều 167 BLHS).