1. Tổng quan về thuế quan 

Thuế quan được điều chỉnh chủ yếu bằng GATT 1994 (sau đây gọi là ‘GATT’). Có thể nhận thấy sự ưu tiên mà Hiệp định này dành cho thuế quan  so với các biện pháp bảo hộ khác. Thuế quan có thể được áp dụng trên cơ sở từng đơn vị hoặc trên cơ sở giá trị của hàng hoá (‘ad valorem’). Các nhượng bộ thuế quan mà các nước đưa ra khi gia nhập WTO hoặc trong các cuộc đàm phán được ghi nhận trong biểu cam kết của những nước này là các mức thuế quan ‘ràng buộc’. Theo Điều II GATT, các biểu cam kết này cấu thành bộ phận không tách rời của GATT. Chúng được xây dựng theo cách tiếp cận ‘danh sách khẳng định’, nghĩa là không có cam kết nào đối với các sản phẩm không nằm trong biểu cam kết. Đối với những sản phẩm được liệt kê, các thành viên sẽ không áp dụng mức thuế quan cao hơn mức trần cam kết trong biểu cam kết của mình đối các thành viên WTO.
Định nghĩa
Trong khuôn khổ WTO, thuế quan được hiểu là loại thuế áp dụng tại cửa khẩu đối với hàng hoá dịch chuyển từ một lãnh thổ hải quan này sang một lãnh thổ hải quan khác (Điều I GATT). Nó thường là thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên WTO cũng áp dụng thuế xuất khẩu. Mặc dù vậy, mối quan tâm chính của GATT/WTO từ trước đến nay vẫn luôn là thuế nhập khẩu. Cần nói rõ thuế quan không phải là ‘thuế nội địa’, ví dụ, thuế giá trị gia tăng (khoản 2 Điều III GATT), cũng không phải là phí hay lệ phí nhập khẩu (Điều VIII GATT).

2. Những khía cạnh chính của thuế quan 

1. Tính ràng buộc
Nhượng bộ thuế quan mà một thành viên WTO đưa ra có ‘giá trị ràng buộc’ và là mức thuế trần, không phải ở mức sàn. Điều đó có nghĩa rằng thành viên đó không thể áp dụng mức thuế suất cao hơn so với mức ràng buộc đã cam kết. Liên quan đến hiệu lực ràng buộc của thuế quan, các nước phát triển đã tăng số lượng dòng sản phẩm nhập khẩu chịu thuế suất ‘ràng buộc’ (tức là thuế suất đã cam kết và khó có thể tăng lên) từ mức 78% tổng số dòng lên mức 99%. Đối với các DCs, có sự gia tăng đáng kể từ 21% lên 73%. Các nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng tăng số dòng sản phẩm nhập khẩu chịu thuế cam kết ràng buộc từ 73% lên 98%. Tất cả đồng nghĩa với mức độ an toàn thị trường cao hơn  đáng kể dành cho các thương nhân và nhà đầu tư.

2. Thuế quan phải được giảm dần
Ngoài tính ràng buộc, thuế quan còn có lộ trình giảm dần. Theo quy định của WTO, hầu hết lộ trình giảm thuế quan của các nước phát triển được chia thành các giai đoạn thực hiện trong vòng 5 năm kể từ ngày 1/1/1995. Kết quả là sẽ giảm 40% số dòng thuế đối với các sản phẩm công nghiệp, giảm từ mức thuế suất trung bình 6,3% xuống 3,8%. Giá trị của các sản phẩm nhập khẩu được miễn thuế từ các DCs sẽ tăng từ mức 20% lên 44%. Ngoài ra, số dòng sản phẩm phải chịu mức thuế suất cao cũng giảm. Tỉ lệ sản phẩm nhập khẩu vào các nước phát triển từ mọi nguồn đang chịu mức thuế cao hơn 15% sẽ giảm xuống từ 7% đến 5%. Tỉ lệ các sản phẩm xuất khẩu của các DCs đang chịu mức thuế trên 15% tại các nước phát triển sẽ giảm xuống còn từ 9% đến 5%. 

3.Tổng quan về nông nghiệp 

Tổng quan
Hiệp định về nông nghiệp (gọi tắt là ‘Hiệp định AoA’) có hiệu lực từ ngày 1/1/1995. Lời nói đầu của Hiệp định này ghi nhận mục tiêu lâu dài của quá trình cải cách, được khởi động trong chương trình cải cách của Vòng đàm phán U-ru-goay, là xây dựng một hệ thống thương mại về nông nghiệp công bằng và theo định hướng thị trường. Chương trình tái cấu trúc bao gồm các cam kết cụ thể nhằm giảm sự hỗ trợ và bảo hộ trong các lĩnh vực hỗ trợ nội địa, trợ cấp xuất khẩu và tiếp cận thị trường thông qua việc thiết lập các quy tắc mạnh hơn, hiệu quả thực thi cao hơn của GATT. Đồng thời, Hiệp định cũng xem xét những vấn đề phi thương mại như an ninh lương thực và nhu cầu bảo vệ môi trường; quy định về những đối xử S&D dành cho các DCs, trong đó có sự cải thiện về cơ hội và điều kiện tiếp cận thị trường của sản phẩm nông nghiệp mà các thành viên này có quan tâm cụ thể.
 Phạm vi và định nghĩa
Điều 2 quy định rằng Hiệp định này áp dụng đối với các sản phẩm được liệt kê trong Phụ lục 1 của Hiệp định, sau đây gọi tắt là sản phẩm nông nghiệp.  Hiệp định định nghĩa sản phẩm nông nghiệp bằng cách tham  chiếu đến hệ thống hài hoà hoá về phân loại sản phẩm – định nghĩa này bao quát không chỉ (i) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa mì, sữa và các động vật sống, mà cả (ii) Các sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như bánh mì, bơ và thịt, cũng như (iii) Tất cả các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến, như sô-cô-la và xúc xích. Định nghĩa này cũng bao hàm cả rượu vang, rượu mạnh, các sản phẩm thuốc lá, các loại sợi như len, bông và lụa, da động vật thô sử dụng trong sản xuất da. Cá, các sản phẩm từ cá và lâm sản không nằm trong phạm vi của sản phẩm nông nghiệp.

4.Những khía cạnh chính của Hiệp định AoA trong việc tiếp cận thị trường 

(a) Chỉ bảo hộ bằng thuế quan
Liên quan đến MA, Vòng đàm phán U-ru-goay đạt được sự thay đổi quan trọng về hệ thống: Chuyển từ thực tế là có vô số các NTBs cản trở dòng chảy của thương mại nông nghiệp sang chế độ chỉ sử dụng thuế quan ràng buộc để bảo hộ và có cam kết cắt giảm. Khía cạnh quan trọng của sự thay đổi có tính căn bản này là nhằm kích thích đầu tư, sản xuất và thương mại trong nông nghiệp bằng cách:
(i) Tăng tính minh bạch, tính có thể dự đoán và tính cạnh tranh của các điều kiện tiếp cận thị trường nông nghiệp;
(ii) Thiết lập hoặc tăng cường mối liên kết giữa thị trường nông sản các quốc gia và quốc tế; và từ đó
(iii) Căn cứ nhiều hơn vào thị trường để định hướng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm một cách hiệu quả nhất, cả trong lĩnh vực nông nghiệp lẫn ở phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp, thuế quan là hình thức bảo hộ duy nhất dành cho các sản phẩm nông nghiệp trong giai đoạn trước Vòng đàm phán U-ru-goay – Vòng đàm phán dẫn đến ‘sự ràng buộc’ trong khuôn khổ WTO về mức trần đối với thuế quan. Tuy nhiên, đối với nhiều sản phẩm khác, các NTBs đã được sử dụng để hạn chế MA. Đây từng là tình trạng phổ biến đối với phần lớn các sản phẩm nông nghiệp ôn đới. Các cuộc đàm phán trong khuôn khổ Vòng U-ru- goay nhằm loại bỏ các rào cản như vậy. Với mục đích này, cùng với những kết quả khác, một gói ‘thuế quan hoá’ (hay ‘thuế hóa’) đã được nhất trí để thay thế các NTBs đối với nông nghiệp bằng thuế quan – biện pháp đảm bảo mức độ bảo hộ tương đương. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, hiện nay đã có quy định cấm áp dụng các NTBs đối với nông nghiệp và mức thuế quan áp dụng đối với hầu hết các sản phẩm nông nghiệp được giao dịch quốc tế đều đã bị ràng buộc trong khuôn khổ WTO.
(b) Giảm thuế quan
Hiệp định yêu cầu thành viên phát triển, trong giai đoạn 6 năm bắt đầu từ năm 1995, giảm thuế quan xuống mức trung bình 36% đối với tất cả các sản phẩm nông nghiệp, với mức giảm tối thiểu 15% cho bất kì sản phẩm nào. Đối với thành viên DCs, mức giảm tương ứng lần lượt là 24% và 10% và được thực hiện trong vòng 10 năm. Các thành viên DCs có mức thuế suất ràng buộc ở mức trần, trong nhiều trường hợp, đã không đưa ra cam kết giảm. Các thành viên LDCs được yêu cầu cam kết ràng buộc tất cả các loại thuế quan đối với hàng nông nghiệp, nhưng không phải thực hiện việc giảm thuế quan.
(c) Cấm áp dụng các biện pháp phi thuế quan (NTBs) tại cửa khẩu Khoản 2 Điều 4 Hiệp định cấm áp dụng các NTBs đối với hàng nông nghiệp. Những biện pháp này bao gồm hạn chế số lượng nhập khẩu, biến thu nhập khẩu, giá sàn nhập khẩu, thủ tục cấp phép nhập khẩu tùy tiện, thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện và các NTBs được duy trì thông qua các doanh nghiệp thương mại nhà nước. Tất cả các biện pháp áp dụng tại cửa khẩu tương tự, mà không phải là ‘thuế quan thông thường’, cũng không còn được phép áp dụng. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 4 Hiệp định không ngăn cấm việc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu phi thuế quan phù hợp với quy định của GATT hoặc các hiệp định khác trong khuôn khổ WTO được áp dụng đối với hàng hoá nói chung. 

(d) Các quy định về biện pháp tự vệ đặc biệt
Như là yếu tố thứ ba của gói ‘thuế quan hoá’, các thành viên có quyền viện dẫn quy định về tự vệ đặc biệt của Hiệp định (Điều 5) đối với sản phẩm đã được thuế quan hoá, với điều kiện việc bảo lưu áp dụng quy định tự vệ đặcbiệt (viết tắt là ‘SSG’) đối với sản phẩm này được thể hiện trong Biểu cam kết của thành viên. Quyền áp dụng SSG được 38 thành viên bảo lưu đối với một số lượng hạn chế các sản phẩm trong mỗi trường hợp. SSG cho phép một thành viên áp dụng thuế quan bổ sung khi đáp ứng các tiêu chí nhất định. Các tiêu chí này có thể là sự gia tăng nhập khẩu đột biến, hoặc trên cơ sở từng chuyến hàng, có sự sụt giảm của giá nhập khẩu xuống dưới mức giá tham chiếu định trước. Đối với trường hợp khởi phát về khối lượng, mức thuế cao hơn chỉ áp dụng cho đến hết năm liên quan. Đối với khởi phát về giá, thuế bổ sung chỉ được áp dụng đối với chuyến hàng có liên quan. Các khoản thuế bổ sung không thể được áp dụng với hàng hoá nhập khẩu trong hạn ngạch thuế quan. 

5. Hỗ trợ nội địa và trọ cấp xuất nhập khẩu 

WTO phân loại các ‘hỗ trợ nội địa’ (‘domestic support’) theo ba nhóm:
– Hộp màu hổ phách (‘Amber box’): bao gồm tất cả các biện pháp hỗ trợ nội địa, như trợ giá, được xem là bóp méo sản xuất và thương
mại. Các loại trợ cấp thuộc nhóm này được thể hiện bằng ‘Tổng lượng hỗ trợ tính gộp’ (‘Total AMS’) – số liệu được cộng gộp từ tất cả các hỗ trợ. Các hỗ trợ nhóm hộp màu hổ phách là đối tượng của các cam kết giảm trong khuôn khổ WTO.
– Hộp màu xanh lơ (‘Blue Box’): bao gồm các khoản hỗ trợ chi trả trực tiếp trên cơ sở diện tích hoặc số lượng vật nuôi, nhưng kèm theo điều kiện về hạn chế sản xuất bằng cách áp đặt hạn ngạch sản xuất hoặc yêu cầu nông dân không sử dụng một phần đất của họ.
Theo quy định của WTO, các biện pháp hỗ trợ này được coi là tách rời một phần với sản xuất và không thuộc đối tượng cam kết giảm. Ở EU, những hỗ trợ này được coi là các khoản chi trả trực tiếp.
– Hộp màu xanh lá cây (‘Green Box’): bao gồm các biện pháp hỗ trợ được coi là không bóp méo thương mại, hoặc chỉ gây ra tác động ở mức tối thiểu và không thuộc đối tượng cam kết giảm trong khuôn  khổ WTO. Đối với EU và Hoa Kỳ, một trong những biện pháp hỗ trợ được phép áp dụng có ý nghĩa quan trọng nhất thuộc nhóm này là hỗ trợ độc lập, trực tiếp dành cho người sản xuất. Biện pháp hỗ trợ này không liên quan đến mức sản xuất hoặc giá cả hiện tại. Nó cũng có thể được áp dụng với điều kiện sự hỗ trợ không gắn với yêu cầu về sản xuất. 

Trợ cấp xuất khẩu
Theo Hiệp định, trợ cấp xuất khẩu chỉ được áp dụng trong bốn trường hợp:
(i) Đối với trợ cấp xuất khẩu là đối tượng của cam kết giảm áp dụng đối với từng sản phẩm cụ thể, thì được phép áp dụng trong mứcgiới hạn quy định tại biểu cam kết của thành viên có liên quan;
(ii) Bất kì khoản thặng dư nào của ngân sách chi tiêu dành cho trợ cấp xuất khẩu hoặc cho khối lượng xuất khẩu đã được trợ cấp vượt quá giới hạn quy định trong biểu cam kết mà được điều chỉnh bởi khoản 2(b) Điều 9 Hiệp định;
(iii) Các loại trợ cấp xuất khẩu phù hợp với quy định về đối xử S&D dành cho các thành viên DCs (khoản 4 Điều 9 Hiệp định);
(iv) Các loại trợ cấp xuất khẩu khác, ngoài những loại là đối tượng của cam kết giảm, với điều kiện chúng phù hợp với quy định vềngăn chặn việc trốn tránh các cam kết về trợ cấp xuất khẩu tại
Điều 10 Hiệp định.
Trong tất cả những trường hợp khác, các biện pháp trợ cấp xuất khẩu dành cho sản phẩm nông nghiệp đều bị cấm áp dụng (khoản 3 Điều 3, các điều 8 và 10 Hiệp định).
Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)