1. Khái niệm công vụ là gì?

1.1. Nghĩa thứ nhất

trách nhiệm công vụ được hiểu như là nghĩa vụ phải thực hiện nhiệm vụ được giao đến cùng, không thể thoái thác hoặc trao lại cho ai khác. Nó là nguyên tắc của công vụ, buộc người công chức phải gắn mình với thực hiện công vụ cho đến khi có kết quả.

Luật Cán bộ, công chức hiện hành viết (viết nghiêng là của tác giả):

Điều 18. Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ

1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công.

Điều 28. Nội dung đánh giá cán bộ

1. Cán bộ được đánh giá theo các nội dung sau đây:

a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;

b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;

c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ;

d) Tinh thần trách nhiệm trong công tác;

đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.

Không chỉ Luật cán bộ, công chức mà Bộ Luật hình sự cũng ghi:

Điều 4. Trách nhiệm đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm

Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệmthi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.

Điều 285. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

“1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

Theo những quy định này trách nhiệmcông vụ được hiểu là sự ràng buộcsức lực, tinh thần, danh dự, số phận với nhiệm vụ. Đó là sự gắn bó, phụ thuộc của chủ thể vào hành vi của mình.

Trách nhiệm được hiểu như thế trở thành tiêu chí của đạo đức công chức. Khi nhận xét một công chức có trách nhiệm với công việc, nghĩa là đã đánh giá công chức đó có đạo đức công chức, đáng tin cậy, thậm chí đáng được khen ngợi, biểu dương. Người bị coi là thiếu trách nhiệm là người không có tinh thần, thái độ gắn bó, ràng buộc mình với công việc, không thấy nghĩa vụ của mình phải hoàn thành công việc. Thậm chí thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị coi là một tội.

1.2. Nghĩa thứ hai

trách nhiệm công vụđược hiểu là sự thiệt hại hay hậu quả bất lợi mà một người không hoàn thành nhiệm vụ sẽ phải gánh chịu.

Theo nghĩa này, bất kỳ ai cũng phải chịu trách nhiệm tùy theo tư cách và vị trí của mình trong quan hệ xã hội nhất định. Công dân có thể chịu trách nhiệm dân sự trong quan hệ dân sự, có thể chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện hành vi phạm tội.

Trong Bộ luật Hình sự, trách nhiệm hình sự được hiểu là những hình thức thiệt hại mà cơ quan xét xử tuyên buộc một cá nhân phạm tội phải gánh chịu như tử hình, ngồi tù,…

Tương tự như vậy, trong quan hệ hành chính, khi thi hành công vụ, công chức phải chịu trách nhiệm công vụ, trong đó có hình thức kỷ luật do cơ quan và cá nhân có thẩm quyền tuyên buộc với các mức khác nhau.

Điều 79. Các hình thức kỷ luật đối với công chức

1. Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây:

a) Khiển trách;

b) Cảnh cáo;

c) Hạ bậc lương;

d) Giáng chức;

đ) Cách chức;

e) Buộc thôi việc.

Trong nền hành chính của nước ta hiện nay, có tình trạng khá phổ biến là trách nhiệm công vụ không cao. Nhiều người thờ ơ, đùn đẩy công việc, khi nảy sinh vấn đề thì đổ lỗi cho người khác, cấp trên đổ lỗi cho cấp dưới, cấp dưới đổ lỗi cho cấp trên,… Điều này cho thấy mặt đạo đức công vụ (lương tâm, trách nhiệm) của công chức không cao.

Theo nghĩa thứ hai là sự tổn thất phải gánh chịu, trách nhiệm công vụ khó khả thi. Các cơ quan, tổ chức nhà nước rất khó buộc một công chức phải chịu một hình thức thiệt hại khi người đó không hoàn thành hoặc hoàn thành không tốt nhiệm vụ.

Những hình thức kỷ luật công chức được quy định trong Luật rất khó thực hiện trong thực tế, bởi lẽ chỉ có thể tuyên buộc một trong các hình thức trách nhiệm như trên khi trải qua một trình tự, thủ tục rất phức tạp. Hơn nữa chỉ có thể áp dụng khi công chức phạm một lỗi rất nặng hoặc trong cả một quá trình tương đối dài.

Mặt khác, có tình trạng chung là khi giao nhiệm vụ thì cả người giao và người nhận thường đại khái, có khi không nêu rõ mục tiêu, các yếu tố đầu vào và yêu cầu đầu ra của công vụ. Do vậy, nếu muốn đánh giá mức độ hoàn thành công vụ cũng khó và càng khó quy trách nhiệm cho người thực hiện.

Do vậy, muốn nâng cao trách nhiệm công vụ, thì khi giao một công vụ, nhất là công vụ có ý nghĩa quan trọng, phải trao quyền hạn rõ ràng, những nguồn lực cần thiết, tương xứng; nêu rõ ràng kết quả chủ yếu của công vụ cần phải đạt được. Nói cách khác, khi giao một công vụ, giữa công chức và người giao nhiệm vụ phải xác định một “hợp đồng”, trên cơ sở đó mới có thể đánh giá khách quan mức độ hoàn thành hay khuyết điểm để áp dụng một hình thức cụ thể của trách nhiệm công vụ.

Trong các cơ quan nhà nước, đối với những công vụ có tính thường xuyên, lặp đi lặp lại hàng ngày, thì cần mô tả công việc cụ thể, với yêu cầu tương xứng về năng lực, trình độ của công chức, với yêu cầu đầu ra cụ thể, với lợi ích mà người công chức đáng được hưởng và những thiệt hại sẽ phải gánh chịu nếu không hoàn thành theo yêu cầu.

2. Trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ

Theo quy định tại điều 9 của Luật cán bộ, công chức :

Điều 9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ

1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.

3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.

5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thờibáo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.

3. Những tiêu chí cơ bản để xác định trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách và quy định pháp luật nhằm nâng cao trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, hiện đại, có phẩm chất đạo đức, có kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu trong cải cách nền hành chính nhà nước, đổi mới chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này trong giai đoạn hiện nay, cần phải xây dựng được những tiêu chí cơ bản để xác định trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức:

Thứ nhất, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực thi công vụ.

Đây là một trong những nghĩa vụ của cán bộ, công chức, được quy định cụ thể tại Điều 8 Luật Cán bộ, công chức: “Cán bộ, công chức có nghĩa vụ phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước”(6). Điều 34 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định, mỗi cán bộ, công chức đều có trách nhiệm “tích cực tìm hiểu, học tập pháp luật; tham gia các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về pháp luật; gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật. Chủ động, tích cực kết hợp thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động chuyên môn, thực thi nhiệm vụ”(7).

Cán bộ, công chức không chỉ có nghĩa vụ chấp hành chủ trương, chính sách chung của Đảng và pháp luật của Nhà nước, mà trong quá trình thực thi công vụ phải nghiên cứu kỹ các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực công tác của cá nhân để có thể áp dụng vào quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Điều này xuất phát từ vị trí, vai trò là công bộc của dân của người cán bộ, công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: cán bộ, công chức là người trực tiếp đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu và thi hành; đồng thời là người nắm tình hình của dân để báo cáo với Đảng, với Chính phủ để hiểu rõ, để ban hành chính sách cho đúng.

Thứ hai, thực hiện đúng bổn phận, trách nhiệm của cán bộ, công chức.

Bổn phận, trách nhiệm của cán bộ, công chức đã được quy định tương đối cụ thể trong Luật Cán bộ, công chức với các nội dung: nghĩa vụ đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân (Điều 8); nghĩa vụ trong thi hành công vụ (Điều 9); những điều cán bộ, công chức không được làm (Mục 4). Thực hiện đúng bổn phận, trách nhiệm của cán bộ, công chức có mối liên hệ mật thiết với kết quả hoạt động công vụ. Trách nhiệm, bổn phận thực thi công vụ của cán bộ, công chức là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, kết quả hoạt động công vụ. Trong quá trình thực thi công vụ, nếu cán bộ, công chức không thực hiện đúng bổn phận, trách nhiệm của mình thì không những hiệu quả của hoạt động công vụ không đạt được, mà còn có thể gây tác động tiêu cực đến cơ quan và của cả nền công vụ.

Vì vậy, cán bộ, công chức cần nhận thức và hiểu rõ được quyền, nghĩa vụ, những điều được phép hoặc không được phép làm trong quá trình thực thi công vụ, thực hiện đúng chức trách của mình trong các mối quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp, với tổ chức, công dân.

Thứ ba, tuân thủ các quy định về đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của cán bộ, công chức. Người cho rằng: người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Có thể nêu ra những chuẩn mực cụ thể trong đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần trách nhiệm cao với công việc; luôn chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc.

Ngoài việc tuân thủ nghiêm các chuẩn mực đạo đức công vụ, mỗi cán bộ, công chức cần phải thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là một loại đạo đức xã hội đặc thù, liên quan đến hoạt động của các loại nghề nghiệp khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp, là ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với hành vi của mình trong quan hệ nghề nghiệp với người khác, với xã hội.

Việc tuân thủ đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cho cán bộ, công chức ý thức rõ trách nhiệm của mình, tránh tình trạng lạm quyền, đảm bảo sự công tâm, minh bạch, không vụ lợi trong quá trình thực thi công vụ.

Thứ tư, tôn trọng tổ chức, công dân trong quá trình giải quyết công việc.

Việc tôn trọng tổ chức, công dân trong quá trình thực thi công vụ thể hiện ở các khía cạnh: phải lắng nghe ý kiến của tổ chức, công dân; trong quá trình giao tiếp, làm việc với tổ chức, công dân phải thể hiện thái độ đúng mực, có tinh thần cầu thị; sẵn sàng chịu sự giám sát của tổ chức, công dân.

Thái độ đúng mực của cán bộ, công chức trong quá trình làm việc sẽ góp phần tạo dựng uy tín, hình ảnh của cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức; tôn trọng công dân và tổ chức trong quá trình thực thi công vụ là biểu hiện cụ thể của mục tiêu cuối cùng của nền công vụ là phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.