Trên vạch (above the line) ở Anh, thuật ngữ trên vạch và dưới vạch được dùng để tách các khoản mục chính, có cùng bản chất ra khỏi các khoản phụ trợ hoặc bổ sung, mang bản chất khác, nhưng được ghi chép trong cùng một biểu thống kê, kế toán. Cụ thể, nó được dùng theo các nghĩa sau:

Trong cán cân thanh toán, đường “vạch” được sử dụng để chia các giao dịch trong cán cân thanh toán thành hai phần: cán cân thanh toán chính thức (bao gồm các giao dịch trong tài khoản vãng lai và tài khoản vốn – nằm ở phía trên đường vạch) và giao dịch bù trừ do ngân hàng trung ương thực hiện (ví dụ mua bán ngoại tệ – nằm ở phía dưới đường vạch). Khái niệm này cho phép tách các giao dịch có bân chất bù trừ, nhưng lại được ghi vào tài khoản vốn, ra khỏi các khoản giao dịch tự sinh, tức giao dịch phát sinh từ các quyết định tư nhân.

Thuật ngữ trước đây được sử dụng trong hệ thống tài khoản quốc gia của Anh. Trong các khoản mục ngân sách nhà nước từ 1947 đến 1963, đường vạch dùng để tách các khoản chi tiêu thường xuyên ra khỏi các khoản thu chi từ vốn vay, kể cả thanh toán nợ.

Trong kinh doanh, những khoản chi trực tiếp cho quảng cáo được gọi là các khoản chi “trên vạch”, còn các khoản chi xúc tiến bán hàng khác (ví dụ tặng phẩm, bán rẻ) được gọi là các khoản chi “dưới vạch”.