1. Quy định của BLTTHS năm 2015
>> Xem thêm: Vai trò của thẩm phán, bồi thẩm đoàn, người bào chữa, công tố trong quá trình xét xử theo pháp luật Hoa Kỳ ?
– Trình tự xét hỏi tại phiên tòa được quy định tại điều 307 BLTTHS năm 2015:
“1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự họp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
3. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét vật chứng có liên quan trong vụ án.”
– Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015, quy định này được đánh giá là phù hợp với từng vụ án và diễn biến cụ thể tại các phiên tòa xét xử, bảo đảm cho hoạt động tranh tụng được thực hiện ngay trong phần xét hỏi tại phiên tòa [1].
– Khi xét hỏi từng, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán (trường hợp Hội đồng 3), Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
– Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản. Quy định này có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo điều kiện dân chủ, bình đẳng trong việc thực hiện việc chứng minh của bị cáo trong xét hỏi; xác định sự toàn diện, đầy đủ, khách quan nội dung vụ án, tránh oan sai, đảm bảo xét xử đúng quy định của pháp luật.
2. Một số yêu cầu chung trước và trong khi tham gia xét hỏi
>> Xem thêm: Bản cáo trạng là gì ? Khái niệm về bản cáo trạng ?
Một là, phải hiểu thật kỹ và nắm chắc hồ sơ vụ án.
Đây là yêu cầu quan trọng nhất, bởi lẽ có hiểu kỹ hồ sơ vụ án thì mới biết trong quá trình xét hỏi HĐXX đã hỏi đầy đủ chưa, còn thiếu vấn đề gì không, từ đó KSV mới cần hỏi. Có hiểu kỹ hồ sơ vụ án thì trong quá trình tranh luận, đối đáp với Luật sư và đối đáp với những người tham gia tố tụng khác, KSV mới nắm được việc phải trích cứu tài liệu, chứng cứ nào, ở bút lục nào khi trả lời, đối đáp với các câu hỏi mà Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đưa ra.
Hai là, phải nắm chắc và hiểu đúng các quy định của pháp luật về (BLHS, BLTTHS, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản áp dụng pháp luật khác có liên quan đến vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng khi giải quyết vụ án để đưa ra xét xử. Việc nắm chắc các quy định của pháp luật giúp KSV xác định được HĐXX điều hành, giải quyết vụ án tại phiên tòa đúng hay sai; quyền và nghĩa vụ của KSV và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà đã được tuân thủ đúng pháp luật chưa? Những nội dung mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đưa ra để đối đáp với KSV hoặc đề nghị HĐXX áp dụng có chính xác không?
Ba là, trước khi THQCT tại phiên toà, KSV bắt buộc phải xây dựng đề cương xét hỏi một cách chi tiết, câu hỏi phải ngắn gọn, đủ ý, dễ hiểu, rõ ràng. Việc xây dựng đề cương xét hỏi để làm rõ các tình tiết gỡ tội, buộc tội đối với bị cáo. Chỉ khi nào xác định được tất cả các tình tiết gỡ tội, thì mới buộc tội đúng. Trong đề cương xét hỏi, KSV cần phải chú ý đến những vấn đề khiếu nại, tố cáo của đương sự, dư luận xã hội, dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa như việc các bị cáo, bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai khác với lời khai có trong hồ sơ vụ án, phải dự kiến câu hỏi để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Bốn là, khi kiểm sát việc xét hỏi tại phiên tòa, KSV phải bảo đảm xét hỏi theo trình tự được quy định tại Điều 307 BLHS năm 2015, nếu chủ tọa phiên tòa điều hành trong quá trình xét hỏi không tuân thủ trình tự xét hỏi theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì KSV phải nhắc nhở HĐXX thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Năm là, khi tham gia xét hỏi KSV phải ứng xử có văn hóa, lịch sự có tâm lý tự tin, bình tĩnh, chủ động và bản lĩnh vững vàng, nắm chắc từng bước để xét hỏi, chú ý chỉ hỏi những nội dung mà trước đó HĐXX chưa hỏi hoặc đã hỏi nhưng không rõ ràng. Để xác định những nội dung nào chưa hỏi thì KSV chú ý lắng nghe, ghi chép đầy đủ và đánh dấu (hoặc gạch bỏ) vào đề cương đã dự kiến câu hỏi, còn câu hỏi nào đã dự kiến nhưng HĐXX chưa hỏi thì KSV sẽ hỏi. Khi KSV hỏi phải tránh hỏi lặp lại những câu hỏi mà HĐXX đã hỏi mà bị cáo đã trả lời rõ ràng theo yêu cầu câu hỏi. Chỉ khi thấy thật cần thiết mới hỏi câu hỏi lặp lại mà bị cáo trả lời chưa rõ ràng, chưa đủ ý, chưa đáp ứng được yêu cầu của câu hỏi, hoặc hỏi lặp lại để nhấn mạnh một vấn đề nào đó xét thấy rất quan trọng. Kiểm sát viên phải nắm được tâm lý, độ tuổi, giới tính, nhận thức xã hội và suy nghĩ của từng người tham gia tố tụng mà đưa ra câu hỏi cho phù hợp, tránh trường hợp để người tham gia tố tụng khi được hỏi nổi nóng, không kìm chế được.
3. Kỹ năng xét hỏi bị cáo tại phiên tòa
>> Xem thêm: Những trường hợp nào phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát giải quyết ?
Việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà là nội dung quan trọng nhất trong việc xét hỏi tại phiên tòa. Bởi lẽ, bị cáo là đối tượng chính của việc xét xử, là người thực hiện hành vi phạm tội, biết rõ nhất những nội dung, các tình tiết liên quan đến vụ án và phải chịu hình phạt. Vì vậy, KSV cần chú trọng xét hỏi bị cáo để đạt được mục đích buộc tội của mình. Trên cơ sở đề cương xét hỏi mà KSV đã chuẩn bị trước, tại phiên tòa, KSV phải chú ý lắng nghe, theo dõi, đối chiếu với những câu hỏi của thành viên HĐXX, nếu họ hỏi trùng với câu hỏi của KSV đã dự thảo trong đề cương và bị cáo đã trả lời rõ đáp ứng đầy đủ yêu cầu của câu hỏi thì KSV phải đánh dấu (hoặc gạch bỏ) để không hỏi nữa, nếu các thành viên trong HĐXX hỏi trùng với câu hỏi mà KSV dự kiến hỏi nhưng bị cáo trả lời chưa đầy đủ, rõ ràng thì KSV cũng đánh dấu lại với ký hiệu khác để hỏi lại cho rõ thêm. Nếu người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đặt những câu hỏi không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì KSV phải lưu ý HĐXX yêu cầu họ tập trung đặt câu hỏi đối với bị cáo (từng bị cáo) sau khi đã được sự đồng ý của HĐXX, hoặc được HĐXX yêu cầu hỏi.
Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của vụ án (khoản 2 Điều 309 BLTTHS năm 2015) để có cơ sở bổ sung, đề xuất trong phần luận tội (đề xuất về tội danh, hình phạt và các quyết định khác có liên quan…) trừ những câu hỏi mà các thành viên HĐXX đã hỏi và bị cáo đã trả lời rõ. Khi hỏi, KSV phải đặt câu hỏi trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, nội dung của vụ án, tránh các câu hỏi dài dòng, khó hiểu và nặng về giải thích.
Trường hợp khi hỏi bị cáo im lặng không khai báo hoặc thay đổi lời khai tại Cơ quan điều tra thì KSV phải giải thích, thuyết phục để bị cáo suy nghĩ trả lời. Nếu bị cáo vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo thì KSV căn cứ vào các tình huống đã dự kiến trong đề cương xét hỏi để nêu câu hỏi có tính sắc bén, từng bước đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo hoặc chuyển sang hỏi bị cáo khác, không được mớm cung, tỏ thái độ cáu gắt, dọa dẫm, KSV chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 308 BLTTHS năm 2015. Đồng thời, chỉ cần công bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh về các tình tiết của vụ án. Nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra thì yêu cầu bị cáo khai rõ lý do có sự mâu thuẫn đó để làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá tính trung thực, khách quan trong lời khai của bị cáo. Việc xét hỏi đối với bị cáo mà trước đó đã bị cách ly được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 309 BLTTHS năm 2015.
Khi tham gia xét hỏi bị cáo, thái độ của KSV cần phải bình tĩnh, không “đao to, búa lớn” đe dọa bị cáo khi xét hỏi; không cứng nhắc phụ thuộc hoàn toàn vào đề cương xét hỏi mà phải linh hoạt, chủ động, nhanh nhạy đưa ra những câu hỏi phù hợp với tình hình diễn biến của phiên toà, trên cơ sở đó kịp thời bổ sung vào bản dự thảo luận tội nhằm bảo đảm cho việc luận tội có tính thuyết phục cao. Về xưng hô tại phiên tòa, KSV phải thể hiện đúng tư cách của người tiến hành tố tụng đối với bị cáo, cụ thể phải gọi là bị cáo, tuyệt đối không xưng hô anh, chị, ông, bà… “khai rõ”; không được sử dụng từ bị cáo “trình bày rõ” hoặc bị cáo “giải thích rõ”.
Đối với vụ án có bị cáo chối tội, vụ án có nhiều bị cáo khác đồng phạm với bị cáo chủ mưu, cầm đầu, chỉ đạo (là đại ca, là bạn bè thân thiết của nhau, là người trong gia đình họ hàng, là cấp trên với cấp dưới trước khi phạm tội…), KSV phải chủ động phối hợp để cách ly trước hoặc đưa ra phương thức xét hỏi cho phù hợp, khi xét hỏi có thể xét hỏi những bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải trước, sau cùng mới hỏi đến bị cáo phản cung hoặc chối tội không có căn cứ. Đối với bị cáo chối tội, khi xét hỏi phải có sự đấu tranh trên cơ sở các chứng cứ và kết quả xét hỏi các bị cáo đã xét hỏi trước đó, ví dụ: Bị cáo với vai trò chủ mưu, chỉ đạo nhưng không nhận tội thì phải xét hỏi bị cáo thực hành trước. Đối với những bị cáo khai báo thành khẩn, nhận tội thì cũng cần chọn bị cáo có tầm ảnh hưởng đối với những bị cáo khác để xét hỏi trước, làm tiền đề cho các bị cáo đồng phạm khác suy nghĩ để khai.
Trong trường hợp cần thiết phải xét hỏi bổ sung để làm rõ thêm về một tình tiết nào đó thì KSV đề nghị chủ tọa phiên tòa quyết định việc xét hỏi (Điều 318 BLTTHS năm 2015) để làm rõ.
Trước khi kết thúc phần xét hỏi bị cáo, KSV phải đưa ra các câu hỏi “chốt lại” để bị cáo khẳng định lời khai của mình là trung thực, chính xác và tự xác định, thừa nhận hành vi của mình là phạm tội. Nếu bị cáo không thừa nhận thì có thể tiếp tục xét hỏi để làm rõ những vấn đề không thừa nhận đó. Đối với bị cáo cố tình chối tội, không thừa nhận mà KSV, HĐXX đã xét hỏi kỹ thì có thể kết thúc phần xét hỏi mà không cần xét hỏi thêm nữa.
4. Kỹ năng xét hỏi đối với bị hại, đương sự hoặc đại diện của họ
>> Xem thêm: Phân tích nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm Sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ?
Theo quy định tại Điều 310 BLTTHS năm 2015 thì bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ được trình bày trước về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau đó, HĐXX, KSV, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự mới hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Vì vậy, KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép tất cả ý kiến của những người này, những câu hỏi của HĐXX và trả lời của họ. Sau đó, KSV cần đối chiếu với dự thảo đề cương xét hỏi đã chuẩn bị, nếu điểm nào chưa rõ thì KSV có thể hỏi thêm để làm rõ, tránh hỏi trùng lặp.
Về phương pháp hỏi, KSV cần đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này, cách xưng hô của KSV với những người tham gia tố tụng này khác với cách xưng hô với bị cáo, tùy theo độ tuổi, giới tính cho phù hợp như: Ông, bà, anh, chị…
5.Hạn chế và kiến nghị hoàn thiện về trình tự xét hỏi
>> Xem thêm: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự và phân tích một số vụ án hình sự thực tế
Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định chủ tọa phiên tòa điều hành xét hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý; Chủ tọa phiên tòa vẫn là người hỏi trước sau đó mới đến Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, Chủ tọa phiên tòa vừa đảm nhiệm việc xét hỏi vừa điều khiển phiên xét hỏi và trách nhiệm chứng minh tội phạm được bắt đầu ngay từ giai đoạn xét hỏi bằng việc hỏi của Chủ tọa và các thành viên HĐXX. Theo tác giả quy định này chưa phù hợp, cụ thể như sau:
+ Theo quy định này thì Chủ tọa và Hội đồng xét xử vừa điều hành việc xét hỏi, thực hiện xét hỏi; và vừa công bố lời khai, vật chứng, tài liệu để buộc tội thì vô hình trung Tòa án đã đứng về phía cơ quan buộc tội. Như vậy sẽ làm lẫn lộn chức năng tố tụng; làm cho phiên tranh tụng thiếu khách quan, công bằng. Đồng thời, làm giảm đi vai trò của VKS (KSV) là chủ thể buộc tội tại phiên tòa. Mà trong phiên tòa, trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về Kiểm sát viên – người giữ vai trò buộc tội.
+ Quy định này tăng vai trò của Chủ tọa phiên tòa, tuy nhiên tác giả rằng Chủ tọa chỉ cần tập trung vào điều hành việc xét hỏi; Chủ tọa và HĐXX chỉ nên hỏi sau cùng và bổ sung nếu thấy cần thiết để xác định rõ và đầy đủ các tình tiết của vụ án như vậy sẽ phù hợp hơn với vai trò của Tòa án, đảm bảo tính tranh tụng tại phiên tòa.
Từ hạn chế như trên, trình tự xét hỏi tại phiên hình sự cần sửa đổi để phù hợp hơn với chủ trương cải cách tư pháp, đó là bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Cụ thể:
+ Trách nhiệm chứng minh sự buộc tội thuộc về VKS (KSV) nên tại phiên tòa KSV phải thực hiện việc xét hỏi trước bởi vì VKS thực hiện chức năng buộc tội nên KSV phải thực hiện việc xét hỏi trước để bảo vệ sự buộc tội đó. Tiếp theo là người bào chữa và bị cáo thực hiện việc xét hỏi để thực hiện chức năng gỡ tội.
+ Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi; HĐXX xét hỏi sau cùng, bổ sung để xác định rõ và đầy đủ thêm các tình tiết của vụ án.
Vì vậy, tác giả đề nghị sửa Điều 307 BLTTHS năm 2015 theo hướng vẫn quy định Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi nhưng theo trình tự KSV xét hỏi trước; tiếp theo là người bào chữa, bị cáo và HĐXX xét hỏi sau cùng và chỉ xét hỏi bổ sung về các tình tiết chưa được các chủ thể trên làm chưa rõ. Cụ thể là:
“Điều 307. Trình tự xét hỏi
Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi và tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đặt câu hỏi.
Khi hỏi từng người, Chủ tọa phiên tòa điều hành để Kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bào chữa, bị cáo, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ xét hỏi.
Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi xét thấy việc xét hỏi chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa cũng có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
Khi xét hỏi, Kiểm sát viên, người bào chữa và Hội đồng xét xử phải xem xét vật chứng trong vụ án.”
Việc sửa đổi trình tự xét hỏi tại Điều 307 BLTTHS như trên để phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, tăng tính tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)