1.Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, trường hợp nào được trả lại hồ sơ
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191
Thưa Luật sư của LVN Group, Anh Đặng Thế X phạm tội buôn bán hàng cấm nay do có căn cứ cho rằng có thêm đồng phạm nữa nên họ đã trả hồ sơ về để điều tra bổ sung . Vậy Luật sư của LVN Group cho tôi hỏi trong những trường hợp nào thì được trả lại hồ sơ ?
Luật sư trả lời:
Căn cứ theo khoản 1 điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :
Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;
c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
2. Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.
3. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó.
Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
2. Căn cứ để tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung.
>> Xem thêm: Nguyên tắc có đi có lại là gì ? Phân tích nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ quốc tế
Bộ luật TTHS 2015 quy định gồm có bốn căn cứ theo khoản 1 Điều 245 và khoản 1 Điều 280, nhiều hơn một căn cứ so với Bộ luật TTHS năm cũ, cụ thể như sau:
Điểm b khoản 1 Điều 245 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác”. Như vậy, Bộ luật TTHS 2015 đã sử dụng cụm từ “có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác” thay cho cụm từ “một hay nhiều” của Bộ luật TTHS cũ. Như vậy, bộ luật TTHS 2015 đã bao quát đầy đủ các trường hợp như ngoài tội phạm mà bị can thực hiện đã được khởi tố, điều tra đến thời điểm truy tố phát hiện bị can còn thực hiện từ hai tội phạm khác trở lên thì đây cũng chính là căn cứ để Viện kiểm sát ra Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
Điểm c khoản 1 Điều 245 và điểm c khoản 1 Điều 280 Bộ luật TTHS 2015 quy định“Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm căn cứ nếu có người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cũng được xem là căn cứ để Tòa án, Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã quy định các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án gồm có bốn căn cứ, nhiều hơn một căn cứ so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Cụ thể là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
– Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà không thể bổ sung tại phiên tòa được (Điểm a Khoản 1 Điều 280);
– Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm (Điểm b Khoản 1 Điều 280);
– Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can (Điểm c Khoản 1 Điều 280);
– Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (Điểm d Khoản 1 Điều 280).
Thực tế thì căn cứ “Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” (Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm cũ) đã được tách ra làm hai căn cứ: “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” và “Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can”. Về mặt diễn đạt điều luật đã sửa đổi và bổ sung thêm một số từ ngữ nhằm nâng cao sự chính xác về kỹ thuật xây dựng văn bản. Bên cạnh đó, Điểm c khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm nội dung nếu có người khác thực hiện hành vimà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cũng được xem là căn cứ để Tòa án, Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3. Về số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
>>Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191
Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần”. Theo đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giới hạn cụ thể trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Như vậy, so với quy định tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm cũ thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giảm số lần Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung từ “hai lần” xuống còn “một lần”.
Xoay quanh vấn đề này có một số quan điểm khác nhau, nhưng có 2 nhóm quan điểm sau: Nhóm quan điểm thứ nhất đồng ý với ý kiến cho rằng Tòa án chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa tối đa một lần; Nhóm quan điểm thứ hai lại cho rằng số lần trả điều tra bổ sung chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trước khi xét xử, còn đối với yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là do Hội đồng xét xử quyết định nên không hạn chế về số lần quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
Tác giả đồng quan điểm với ý kiến thứ nhất bởi khi Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, những thiếu sót có thể khắc phục được thì nên phối hợp với Viện kiểm sát để khắc phục, những tài liệu chứng cứ không thể khắc phục được hoặc những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác hoặc đồng phạm khác thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thẩm phán phải có trách nhiệm đối với đối với những nội dung yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Mặt khác quá trình điều tra luôn có sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, chức năng của Tòa án là xét xử nên việc quy định Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần là hợp lý.
Quy định này thể hiện sự chặt chẽ hơn, tránh sự tùy tiện, lạm dụng việc trả hồ sơ để kéo dài thời gian giải quyết vụ án bởi vì theo quy định hiện hành Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần điều đó có nghĩa là cả hai lần trả hồ sơ, Tòa án có thể quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa. Quy định này còn thể hiện sự phù hợp với nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử theo tinh thần của Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp”. Rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu như Tòa án đã trả hồ sơ hai lần trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì kết quả điều tra công khai tại phiên tòa sẽ không có ý nghĩa với việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nữa vì Tòa án đã hết số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quy định mới này trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được bất cập nêu trên góp phần đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
4. Về việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của tòa án.
>> Xem thêm: Những quyết định thuộc thẩm quyền toà án trong khi chuẩn bị xét xử ?
Đây là một quy định mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết như sau:
– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết;
– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.
Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng luật hóa một số nội dung mới như trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát có thể trực tiếp bổ sung mà không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra (Điều 246) hoặc trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ (khoản 2 Điều 280). Điều này tạo sự chủ động cho Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hạn chế được tình trạng giải quyết vụ án bị kéo dài.
Nhìn chung, các quy định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong BLTTHS năm 2015 đã cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi nhằm đảm bảo thống nhất với các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, đó là:
Thứ nhất, về các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
– Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung “khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được” quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong thực tế có nhiều trường hợp, Thẩm phán thụ lý vụ án khi nghiên cứu hồ sơ thấy có chứng cứ chưa rõ hoặc có quan điểm đánh giá chứng cứ khác với quan điểm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung khi chưa đưa vụ án ra xét xử, chưa thẩm tra chứng cứ thiếu sót thông qua việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa. Để tránh trường hợp trên và tránh việc lạm dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi nghiên cứu chưa kĩ hồ sơ thì cần quy định theo hướngchặt chẽ hơn: Tại phiên tòa, nếu qua quá trình xét hỏi, tranh luận mà thấy có chứng cứ quan trọng chưa được điều tra làm rõ hoặc phát sinh tình tiết mới không thể làm rõ tại phiên tòa thì mới được trả hồ sơ điều tra bổ sung.
– Đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi “việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng”. Cần quy định rõ hơn về hành vi vi phạm thủ tục tố tụng. Theo tác giả, cần quy định theo hướng làm rõ những vi phạm đó là những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng mà gây xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng, chẳng hạn như bị can. Đối với trường hợp này thì cũng cần phải có thêm điều kiện là Tòa án không thể tự mình bổ sung được, nên cần phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.
Bên cạnh đó, tại Khoản 2 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ”. Khi đó, Tòa án sẽ xem xét văn bản đề nghị của Viện kiểm sát, từ đó ra Quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Thứ hai, về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án.
Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định nội dung “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung”, còn nội dung Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung lại được quy định tản mạn, rải rác ở trong những điều luật khác có liên quan. Điều này vô hình chung tạo nên một sự nhầm lẫn về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án. Cụ thể là hiện này vẫn còn tồn tại những cách hiểu sai lầm về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, đó là cho rằng việc yêu cầu trả hồ sơ điều tra bổ sung chỉ có thể do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành và chỉ có thể tiến hành trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Thứ ba, về thời hạn điều tra bổ sung và gia hạn điều tra bổ sung.
Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp hồ sơ do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 2 tháng; còn nếu do Tòa án trả lại hồ sơ thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 1 tháng. Thời hạn điều tra bổ sung được tính từ ngày Cơ quan Điều tra nhận lại hồ sơ vu án và yêu cầu điều tra.
Như vậy, Bộ luật mới chỉ quy định thời điểm bắt đầu của thời hạn Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra là tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận được hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Còn đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát và Viện kiểm sát tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì Bộ luật chưa quy định thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp này. Vì vậy, cần thiết bổ sung quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải chuyển cho Cơ quan Điều tra và quy định cụ thể khoảng thời gian kể từ ngày Tòa án ra quyết định trả điều tra bổ sung thì Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Thứ tư, về việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án.
Pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn cho Viện kiểm sát xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. Đây là thiếu sót và nguyên nhân làm chậm quá trình giải quyết vụ án bởi khi Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung, VKS sẽ tiến hành xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan Điều tra tiến hành bổ sung các vấn đề mà Tòa án yêu cầu. Vì vậy, nếu không quy định thời hạn cho VKS, việc bổ sung có thể bị chậm và không cơ quan nào có trách nhiệm về sự chậm trễ đó. Do đó, cần bổ sung thêm quy định về thời hạn để VKS xem xét quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để rút ngắn thời gian tố tụng. Theo đề xuất, nếu như thời hạn Tòa án chuyển quyết định, hồ sơ cho VKS là 03 ngày thì cũng nên ghi nhận thời hạn VKS xem xét quyết định: “Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, VKS phải xem xét, quyết định tự bổ sung hoặc chuyển hồ sơ cho Cơ quan Điều tra”.
Nhìn chung, yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phải thể hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng hình sự; nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước, của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng; đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định của pháp luật.
5. Những vướng mắc khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoạigọi:1900.0191
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định trong BLTTHS nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Qua thực tiễn xét xử, còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cụ thể như sau:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 174 BLTTHS quy định “Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần”. Theo quy định trên quá trình giải quyết vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và tại phiên tòa HĐXX chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung để kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Đồng thời buộc Thẩm phán phải nêu cao tinh thần trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án, phát hiện các vấn đề cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tránh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần. Thực tế có những trường hợp sau khi Thẩm phán, HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án lại xuất hiện những tình tiết mới, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào khi Tòa án đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, vấn đề này cần được cơ quan chức năng hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai, khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT hướng dẫn “Trường hợp phải tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trong quyết định nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung” hướng dẫn này hiện nay có những quan điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chấp nhận điều tra bổ sung tất cả các yêu cầu của Tòa án nhưng còn sót vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án hoặc có điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, trong thời hạn 15 ngày Thẩm phán được quyền tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung (lần 2 trong thời hạn chuẩn bị xét xử) và nêu rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung như hướng dẫn.
Quan điểm thứ hai: Trường hợp này, Thẩm phán không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung mà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung và nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT.
Quan điểm của tác giả: BLTTHS quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần và HĐXX được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Tuy nhiên, trường hợp Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng kết quả điều tra bổ sung còn sót những vấn đề Tòa án yêu cầu hoặc có điều tra bổ sung nhưng không đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra bổ sung thì sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước và nêu rõ lý do như hướng dẫn tại khoản 3 Điều 9 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT. Bởi lẽ, trong trường hợp này Thẩm phán chủ tọa tiếp tục trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung những vấn đề Viện kiểm sát đã chấp nhận nhưng điều tra bổ sung còn thiếu sót, chưa đạt yêu cầu, hoặc do điều tra bổ sung làm phát sinh các vấn đề mới cần Viện kiểm sát điều tra lại đầy đủ theo yêu cầu. Trường hợp nếu Viện kiểm sát điều tra đầy đủ, đúng yêu cầu và kết quả điều tra không làm phát sinh vấn đề gì mới, sau khi nhận lại hồ sơ vụ án Thẩm phán phát hiện còn có vấn đề cần điều tra bổ sung nhưng quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa yêu cầu thì Thẩm phán không được trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, trường hợp này HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Thứ ba, khoản 6 Điều 326 BLTTHS quy định: ‘‘Kết thúc việc nghị án, HĐXX phải quyết định một trong các vấn đề: Ra bản án và tuyên án; Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ; Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; Tạm đình chỉ vụ án’’.
BLTTHS không quy định các trường hợp HĐXX phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, theo hướng dẫn Thông tư liên tịch số 02/2017/ TTLT các trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng là các trường hợp HĐXX trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa khi nào? Trường hợp thứ nhất: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng không phát hiện ra các vấn đề cần điều tra bổ sung hoặc tại phiên tòa xuất hiện các vấn đề mới mà tài liệu trong hồ sơ vụ án không phản ánh nên Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ không phát hiện. Nếu thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trường hợp thứ hai: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phát hiện những vấn đề trong vụ án chưa được làm rõ nhưng không trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung vì tự tin tại phiên tòa sẽ làm rõ hoặc bổ sung chứng cứ được, nhưng tại phiên tòa không bổ sung, làm rõ chứng cứ được thì HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa, HĐXX thấy có những vấn đề thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS mà trước đó Thẩm phán chưa trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì HĐXX trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Còn những vấn đề trước đó Thẩm phán đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát có văn bản trả lời là không có căn cứ thì HĐXX không được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Thứ tư, khoản 3 Điều 280 BLTTHS quy định: Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Quy định trên được hiểu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung và Viện kiểm sát thấy yêu cầu của Tòa án là có căn cứ và tiến hành điều tra bổ sung nhưng không bổ sung được và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án; nếu những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là những căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội, Viện kiểm sát không điều tra bổ sung (cho rằng không có căn cứ) và giữ nguyên quyết định truy tố, trường hợp này giải quyết như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ thì HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 và điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm của tác giả: Nếu tại phiên tòa đã làm rõ những vấn đề Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung là có căn cứ, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 298 BLTTHS để giải quyết vụ án. Nếu tiếp tục trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cho rằng không có căn cứ thì có trả tiếp chỉ kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Nếu không đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội. Sau đó, kiến nghị lên Tòa án cấp trên. Nếu trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung theo điểm b, c khoản 1 Điều 280 BLTTHS thì HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 298 BLTTHS xét xử vụ án và nhận định trong bản án.
Thứ năm, trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định, kết luận định giá tài sản, cần giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản thì Tòa án trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung hay Tòa án tiến hành yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại, yêu cầu định giá lại tài sản. Hiện nay, vấn đề này giữa Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm khác nhau.
Quan điểm Viện kiểm sát cho rằng: Việc giám định, định giá tài sản đã tiến hành đúng theo trình tự thủ tục; kết quả giám định, định giá tài sản là đúng và khách quan, đầy đủ. Hơn nữa, Tòa án có thẩm quyền trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 252 BLTTHS nên Viện kiểm sát không tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả: Theo quy định tại khoản 1 Điều 210; khoản 1 Điều 211; khoản 1 Điều 218 BLTTHS: Các chứng cứ trên là cơ sở để Viện kiểm sát chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội ở khoản nào của điều luật, nhưng những chứng cứ quan trọng đó không thể bổ sung tại phiên tòa được. Vì vậy, Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là đúng theo quy định.
>> Xem thêm: Tội chống người thi hành công vụ bị xử phạt như thế nào ?
Luật LVN Group (Biên tập)