1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Thông thường, khi tài sản gây thiệt hại, việc xác định ai phải bồi thường thiệt hại sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.

  • Nếu tài sản gây thiệt hại mà chủ thể đang quản lý có lỗi trong việc quản lý, thì phải bồi thường.
  • Nếu tài sản gây thiệt hại trong trường hợp người quản lý tài sản tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý tài sản, thì ai là người được hưởng quyền khai thác công dụng hoặc hưởng lợi ích do tài sản mang lại sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với lẽ công bằng. Khi tài sản gây thiệt hại, người quản lý tài sản bị suy đoán là có lỗi cho đến khi chứng minh mình không có lỗi trong việc quản lý tài sản. Những bằng chứng mà người quản lý tài sản đưa ra để loại trừ yếu tố lỗi là căn cứ quan trọng trong việc xác định chủ thể phải bồi thường. Đối với trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, dường như việc chứng minh “không có lỗi” trong quản lý tài sản không ảnh hưởng đến việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả trong trường hợp không có lỗi.

=> Theo quy định này, khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, người đang trực tiếp quản lý nguồn nguy hiểm cao độ sẽ phải bồi thường thiệt hại, bất kể người đó có lỗi hay không có lỗi. Người trực tiếp quản lý tài sản này có thể là người được hưởng lợi hoặc không được hưởng lợi ích từ tài sản mình quản lý. Điều này cho thấy, pháp luật đặc biệt đề cao trách nhiệm của chủ sở hữu, người chiếm hữu, người sử dụng trong việc quản lý nguồn nguy hiểm cao độ.

Theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể thuộc về chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hoặc người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Tuy nhiên, cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể này cũng khác nhau.

 

2. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ như thế nào?

Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật mà bản thân hoạt động của chúng đã tồn tại khả năng gây thiệt hại.

Theo Bộ luật dân sự năm 2015 không đưa ra được khái niệm về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê những vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thì:

Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định“.

Như vậy, việc xác định một vật có phải nguồn nguy hiểm cao độ hay không, ta phải dựa vào các văn bản pháp luật có liên quan. Ví dụ:

  • Phương tiện giao thông vận tải cơ giới được quy định tại điểm 13 điều 1 Luật Giao thông đường bộ quy định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật;
  • Hệ thống tải điện có thể hiểu là gồm lưới điện truyền tải và các nhà máy điện đấu nối vào lưới điện truyền tải.
  • Vũ khí theo quy định tại điểm 1 Luật quản lý, sử dụng vũ khí vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì được định nghĩa thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
  • Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn.. dễ gây ra cháy nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ cao hoặc không cao (diêm, phốt pho, xăng dầu,.)
  • Chất nổ với khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng ( thuốc nổ, thuốc pháp, thuốc súng,..)
  • Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, động vật cũng như đối với môi trường xung quanh ( các chất độc bảng A như A-cô-ni-tin và các loại muối của nó, kẽm, phốt pho, ni-cô-tin,..)
  • Chất phóng xạ thì căn cứ theo khoản 8 Điều 3 Luật Năng lượng nguyên tử 2008 quy định Chất phóng xạ là chất phát ra bức xạ do quá trình phân rã hạt nhân, chuyển mức năng lượng hạt nhân, có hoạt độ phóng xạ riêng hoặc tổng hoạt độ lớn hơn mức miễn trừ. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học, có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy, gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.

Trân trọng!

 

3. Nguồn nguy hiểm cao độ là gì?

Tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ liệt kê những loại tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ, mà không đưa ra khái niệm mang tính khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ. Cụ thể điều luật như sau:

“Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định…”

Trong khái niệm này, nhà làm luật đã xây dựng khái niệm vẫn theo hướng liệt kê một số nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng sự liệt kê lại không thống nhất về nội hàm của các thuật ngữ.

Ta có thể thấy rằng sự hoạt động của tài sản nói chung, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng có thể chịu sự tác động hoặc không chịu sự tác động của con người. Tức là ngay cả khi con người “không vận hành” hoặc “không cho chúng hoạt động” thì bản thân nguồn nguy hiểm cao độ vẫn có những hoạt động “tự thân” ở bên trong, cùng với tác động của môi trường tự nhiên vẫn có thể gây ra thiệt hại.

Ví dụ, các chất cháy, chất nổ gặp điều kiện tự nhiên thuận lợi có thể tự bốc cháy, phát nổ mà không cần con người sử dụng bất cứ loại chất xúc tác nào tác động vào chúng.

Trân trọng!

 

4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu khi có căn cứ pháp luật khác

Theo Bộ luật dân sự Việt Nam trước đây chỉ đề cập tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, của người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng tài sản, của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật và của người thứ ba có lỗi mà không có quy định nào đề cập tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại của những người chiếm tài sản có căn cứ pháp luật khác mà không phải là chủ sở hữu hay người được chuyển giao.

Ví dụ: Người quản lý tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc,..

Đây là hạn chế của Bộ luật dân sự này và hiện nay đã được khắc phục bởi các quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015.

Trên thực tế, tài sản do những chủ thể này quản lý cũng có thể gây ra thiệt hại, nên cũng cần đặt ra vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ. Như vậy, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật khác sẽ đặt ra trong hai trường hợp, đó là hai trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, nếu người chiếm hữu có căn cứ pháp luật có lỗi trong việc quản lý tài sản thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản mà mình quản lý gây ra (trách nhiệm xuất phát từ sự vi phạm).

Tuy nhiên, có câu hỏi đặt ra nếu người chiếm hữu có căn cứ pháp luật là người chưa đủ 18 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự (không đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại), thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai? Lúc này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này sẽ thuộc về cha mẹ, người giám hộ, hoặc người có trách nhiệm quản lý họ. Bởi vì, trong trường hợp này đã xuất hiện sự vi phạm trong việc quản lý tài sản, đương nhiên bản thân người chiếm hữu có căn cứ pháp luật không bị coi là có lỗi. Người bị xác định là có lỗi ở đây là cha mẹ, người giám hộ hoặc chủ thể có trách nhiệm quản lý họ. Lỗi ở đây được suy đoán là do họ đã không kiểm soát chặt chẽ hành vi của người thuộc nghĩa vụ quản lý của mình.

Trường hợp thứ hai, nếu người chiếm hữu có căn cứ pháp luật không có lỗi trong việc quản lý tài sản thì việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên nguyên tắc hưởng quyền phải gánh chịu rủi ro do tài sản mang lại. Theo đó, chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, bởi vì lúc này chủ sở hữu vẫn là người có quyền được hưởng lợi ích từ tài sản. Hơn nữa bản thân người chiếm hữu hợp pháp trong những trường hợp này đã và đang thực hiện một hành vi để mang lại lợi ích cho chủ sở hữu (bảo quản, giữ gìn tài sản hộ chủ sở hữu).

Tuy nhiên, cũng có câu hỏi đặt ra là nếu tài sản là gia súc và gia cầm trước khi gây thiệt hại mà sinh ra hoa lợi, và chủ sở hữu đã hưởng một nửa số gia súc con hoặc toàn bộ số trứng thì có phải chịu một phần thiệt hại do tài sản gây ra hay không? Điều này thì người quản lý gia súc, gia cầm bị thất lạc được hưởng gia súc con hoặc trứng cũng coi như họ được hưởng một khoản tiền công trông giữ gia súc, gia cầm hộ chủ sở hữu mà không phải họ đương nhiên có được khoản lợi đó. Do vậy, người quản lý gia súc, gia cầm bị thất lạc sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường.

Thực tế có thể tồn tại luồng ý kiến cho rằng, bản thân người chiếm hữu hợp pháp tài sản cũng phải bồi thường khi tài sản gây thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi trong việc quản lý tài sản. Bởi vì bản thân họ có quyền quản lý và chi phối hoạt động của tài sản. Hơn nữa, khi phát hiện ra các loại tài sản này, họ hoàn toàn có thể từ chối việc chiếm hữu tài sản đó, nhưng họ không từ chối thì phải chấp nhận những rủi ro xảy ra khi đã thực hiện quyền chiếm hữu tài sản.

Trong Bộ luật dân sự năm 2015, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định chung tại khoản 3 Điều 584 bao gồm chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản, trong đó sẽ bao gồm cả người chiếm hữu có căn cứ pháp luật khác. Do đó, khi Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực, việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp sẽ có cơ sở pháp lý rõ ràng, bảo đảm việc áp dụng thống nhất trên thực tế.

 

5. Trường hợp tài sản vô chủ gây thiệt hại, chủ thể nào phải bồi thường?

Việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản chính là quyền của họ trong việc định đoạt tài sản. Hậu quả của việc thực hiện quyền từ bỏ quyền sở hữu tài sản sẽ dẫn đến tài sản đó trở thành tài sản vô chủ, tức là tài sản không thuộc sở hữu của ai. Do đó, khi tài sản vô chủ gây thiệt hại, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng là một vấn đề pháp lý quan trọng cần đặt ra. Tuy nhiên, trong Bộ luật dân sự năm 2015 không quy định về trường họp này. Vậy thông qua cách hiểu và đã nghiên cứu, trong trường hợp tài sản vô chủ mà gây thiệt hại thì việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường được đặt ra trong các trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất, nếu xác định được người từ bỏ quyền sở hữu thì người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu việc từ bỏ quyền sở hữu vi phạm quy định pháp luật có liên quan. Điều này xuất phát từ nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu tại khoản 2 Điều 160 Bộ luật dân sự năm 2015: “chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản (kể cả quyền từ bỏ quyền sở hữu) nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu đã biết việc từ bỏ quyền sở hữu có thể gây thiệt hai cho chủ thể khác mà vẫn thực hiện hành vi từ bỏ đó (Ví dụ: A đổ thuốc trừ sâu còn thừa trong bình xuống ao cá nhà B) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật gây ra.

Trường hợp thứ hai, nếu không xác định được ai là người đã từ bỏ quyền sở hữu hoặc phát hiện được người đã từ bỏ quyền sở hữu nhưng việc từ bỏ không vi phạm nguyên tắc chung về thực hiện quyền sở hữu thì người đã từ bỏ quyền sở hữu tài sản (Ví dụ: Sau khi sử dụng thuốc diệt chuột, A đã vứt toàn bộ các vỏ hộp vào thùng rác công cộng theo quy định, sau đó con mèo nhà B đi kiếm ăn đã ăn phải số nguyên liệu dính thuốc chuột còn thừa nên đã bị chết) thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi vì, bản thân người từ bỏ quyền sở hữu không còn là chủ sở hữu của tài sản, nên họ không phải chịu trách nhiệm liên quan đến tài sản. Khi đó, người bị thiệt hại phải chịu rủi ro đối với thiệt hại xảy ra.

Trân trọng!