1 Quy định chung về tự do cạnh tranh

Lý thuyết về cạnh tranh tự do ra đời vào thời kỳ giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực thị trường. Cùng với chủ nghĩa tự do trong thương mại, lý thuyết tự do cạnh tranh là ngọn cờ đấu tranh trước những nguy cơ can thiệp thô bạo từ phía công quyền vào đời sống kinh doanh, từ đó tạo môi trường cho chủ nghĩa tư bản phát triển trong những thời kỳ đầu của chúng. Ở một chừng mực nhất định, các quan điểm về tự do cạnh tranh đã tôn sùng và tạo điều kiện cho sự sáng tạo của con người vượt ra những quan niệm cổ hủ của tư tưởng phong kiến trọng nông.

Khái niệm cạnh tranh tự do được hiểu từ sự phân tích các chính sách xây dựng và duy trì thị trường tự do, theo đó “thị trường tự do tồn tại khi không có sự can thiệp của Chính phủ và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự do”6. Do đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh mà ở đó các chủ thể tham gia cuộc tranh đua hoàn toàn chủ động và tự do ý chí trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh của mình.

Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng với quan điểm về bàn tay vô hình do nhà kinh tế học người Anh Adam Smith (1723-1790) đề xuất. Theo Adam Smith, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào quy luật của tự nhiên vì cho rằng trong các hiện tượng tự nhiên luôn tồn tại một trật tự có thể thấy được qua quan sát hoặc bẳng cảm giác đạo đức. Do đó, cơ chế kinh tế và pháp luật nên tuân theo thay vì đi ngược lại các trật tự tự nhiên này. Trong tác phẩm Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc (1776), Ông tôn vinh vai trò điều tiết thị trường của bàn tay vô hình và cho rằng, sự tự do tự nhiên đã sản sinh ra một hệ thống điều tiết các quan hệ và các lợi ích thị trường đơn giản và rõ ràng. Theo đó, khi chạy theo lợi ích cá nhân, mỗi người đã vô tình đồng thời đáp ứng lợi ích của xã hội, cho dù trước đó họ không có ý định này (cơ chế này được gọi là sự điều hoà tự nhiên về lợi ích). Vì vậy, hệ thống cạnh tranh tự do tự nó đã sản sinh những quyền lực cần thiết để điều tiết và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu. Vì vậy, công quyền không cần phải can thiệp sâu vào đời sống thị trường7.

Bàn về cạnh tranh tự do, Adam Smith không loại bỏ vai trò của Nhà nước ra khỏi các quan hệ trên thương trường. Mặc dù cổ súy cho tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh, nhưng ông vẫn đề cao vai trò của công quyền trong việc đảm bảo trật tự thị trường. Theo đó, thị trường cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua hai nội dung: Thứ nhất, Nhà nước cần phải bảo vệ các ngành công nghiệp còn non trẻ bằng các hàng rào thuế quan;

Thứ hai, Nhà nước phải thực hiện ba chức năng là đảm bảo an ninh, duy trì sự công bằng, xây dựng và bảo vệ các công trình công cộng.

Ngày nay, lý thuyết về mô hình cạnh tranh tự do sơ khai kiểu của Adam Smith đã được một số người tự xưng là môn đệ của ông phát triển thành nhiều trường phái khác nhau. Sự phát triển đa dạng và phức tạp của các quan hệ trên thương trường với sự đan xen ngày càng chặt chẽ của nhiều dạng lợi ích đã làm nổi bật sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc điều tiết cạnh tranh trên thương trường. Mô hình cạnh tranh tự do đã không còn là hình thức cạnh tranh lý tưởng được xưng tụng và áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, giá trị lịch sử của mô hình đó vẫn còn sáng mãi trong quan niệm và trong ý thức của loài người khi thiết kế các mô hình thị trường hoặc mô hình cạnh tranh trong thực tế của đời sống kinh tế – xã hội hiện đại

2 Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp

Ở nước ta, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được quy định ngay từ khi Luật Cạnh tranh đầu tiên được ban hành. Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định: “Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh”. Quyền này tiếp tục được quy định tại Điều 5 Luật Cạnh tranh năm 2018, theo đó “Doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo đảm quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh”. Vấn đề đặt ra là cần hiểu quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp là gì, quyền này bao gồm những nội dung nào?
Khi khẳng định doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh có nghĩa là doanh nghiệp được tự do lựa chọn hành vi và phương thức cạnh tranh, miễn là những hành vi và phương thức ấy phù hợp với quy định của pháp luật. Trên phương diện hành vi cạnh tranh, chính vì tự do cạnh tranh là một trong những nội dung cấu thành quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp được thực hiện bất cứ hành vi nào pháp luật không cấm. Trên cơ sở quan điểm đó, Luật Cạnh tranh đã quy định bảy nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm, tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh. Các hành vi bị cấm bao gồm: (i) Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh; (ii) Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó; (iii) Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó; (iv) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó; (v) Lôi kéo khách hàng bất chính dưới các hình thức như đưa thông tin gian dối đến khách hàng về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc so sánh hàng hóa của doanh nghiệp mình với doanh nghiệp khác; (vi) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó; (vii) Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của pháp luật.
Ngoài bảy nhóm hành vi nêu trên, doanh nghiệp có quyền lựa chọn bất cứ hành vi cạnh tranh nào để thực hiện trong quá trình sản xuất, kinh doanh của mình. Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các hành vi cạnh tranh hợp pháp của doanh nghiệp.
Tương tự như vậy, pháp luật quy định các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm như thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ, thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu… Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền, pháp luật quy định cấm doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường để thực hiện các hành vi gây tổn hại hoặc hạn chế cạnh tranh như phân biệt đối xử về giá, bán dưới giá, từ chối giao dịch, bán kèm… Nếu doanh nghiệp thực hiện các hành vi bị cấm nêu trên và đủ các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật thì sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý; mọi hành vi cạnh tranh khác của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đều được coi là hợp pháp và được tự do thực hiện.
Trên phương diện phương thức cạnh tranh, doanh nghiệp có thể lựa chọn cạnh tranh trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo đó, cạnh tranh trực tiếp được hiểu là cạnh tranh được thực hiện trên cơ sở so sánh tương quan giữa các đối thủ trên thị trường, thông qua các hình thức như giảm giá bán, nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới quy cách, mẫu mã sản phẩm…; cạnh tranh gián tiếp là cạnh tranh thông qua các hình thức tác động vào người tiêu dùng, qua đó chiếm lĩnh thị phần trên thị trường liên quan như quảng cáo để lôi kéo khách hàng, khuyến mại, cung cấp cho người tiêu dùng các dịch vụ gia tăng…, làm cho đối thủ cạnh tranh bị mất thị phần hoặc gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ. Các phương thức cạnh tranh được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành như Luật Quảng cáo, Luật Thương mại… Doanh nghiệp được sử dụng bất cứ phương thức cạnh tranh nào để có thể giành chiến thắng trên thị trường, miễn là phương thức ấy phù hợp với quy định của pháp luật và không vi phạm các chuẩn mực đạo đức kinh doanh.

3 Giới hạn kết ước

Một bên tham gia hợp đồng có thể cam kết không cạnh tranh với bên kia trong một thời gian nhất định.
Ví dụ:
‘ Một đại diện thương mại cam kết trong bản hợp đồng lao động không cạnh tranh với chủ, sau khi đã thôi làm việc chọ doanh nghiệp.
– Người bán một cơ sở kinh doanh cam kết vối người mua không lập hoặc mua một cơ sở khác cùng ngành nghề.
Trái với quyết định của một số tòa án, một điều khoản cạm kết “không cạnh tranh” không nhất thiết phải nêu rõ thời gian và phạm vi vùng áp dụng thì điều khoản đó mội có giá trị. Tòa phá án coi sự giới hạn về thời gian và địa điểm là do hai bên tùy ý lựa chọn.
Tòa phá án Pháp có quan niệm khác với tòa án phúc thẩm về giới hạn “không cạnh tranh” về thời giạn, không gian. và những hoạt động bị cấm Các Tòạ án phúc thẩm thường có khuynh hướng hủy điều khoản về “không cạnh tranh” vì cho nó có hại cho quyền tự do lao động của người làm công. Còn Tòa phá án lại giải quyết theo hướng ít lợi ích của người làm công hơn, cho nên chỉ hủy điều khoản về “không cạnh tranh” trong trường hợp thật rõ là người làm công bị rơi vào tình trạng hoàn toàn không thể tiếp tục nghề nghiệp một cách bình thường do có điều khoản đó… Trong.khoảng 15 năm nay, thực ra Tòa án không hủy điều khoản này lần nào mà chỉ cho áp dụng nó trong phạm vi hẹp.
Trong trường hợp góp vốn chung giữa các doanh nhân, cũng có thể có điều khoản về “không cạnh tranh”là:không được mở ra hoạt động kinh doanh mới giống như cơ sở kinh doanh đã chung vốn. Tuy nhiên, hình như Tòa phá án không công nhận điều khoản loại đó.

4 Cạnh tranh không trung thực

Dù không bị ràng buộc bởi một hợp đồng nào, thì trong cuộc cạnh tranh ở thị trường cũng không được tùy tiện áp dụng bất cứ biện pháp nào để cạnh tranh với đối phương, nếu không, có thể bị kiện về cạnh tranh không trung thực. Người cạnh tranh không trung thực có thể bị tòa án buộc phải chấm dứt việc sử dụng những biện pháp bất lương và phải bồi thường thiệt hai căn cứ vào điều 1342 Bộ luật dân sự.
Các bản án của tòa án coi những biện pháp sau đây là canh tranh không trung thực:
– Gây nên sự nhầm lẫn giữa hai cơ sở bằng những biện pháp như: đặt tên thương mại giống nhau; làm biển cửa hàng, làm mặt tiền của cửa hàng giống nhau, gây sự nhầm lẫn giữa hai sản phẩm bằng hình vẽ, kiểu dáng, nhãn hiệu sản xuất dù chưa đăng ký. Nếu sản phẩm bị cạnh tranh một cách không trúng thực đã được đăng ký thì người sở hữu có quyền kiện về tội giả mạo
Doanh nhân là người sử dụng đầu tiên một biển cửa hàng có thể cấm doanh nhân khác dùng một biển cửa hàng giống nhau ở một tỉnh hoặc ít nhất ở trong một khu phố, tùy theo tính chất củà loại kinh doanh và tầm quan trọng của địa phương. Yêu cầu này đựợc xem xét căn cứ vào khả năng gây nhầm lẫn.,
– Gây nên giảm sút sự mến mộ của khách hàng bằng phương pháp thông báo, quảng cáo, tố cáo sai sự thật với những nghiệp đoàn hoặc với các nhà chức trách.
– Gây nên sự rối loạn trong doanh nghiệp đối phựơng bằng cách mua chuộc nhân viên hoặc làm lộ bí mật sản xuất.
– Gây nên sự rối loạn chung về thị trường bán hạ giá, thông báo một sản phẩm là nguy hiểm, chiếm đoạt tiền thưởng, đưa ra những chỉ dẫn sai khi rao bán,v.v…

5 Những thỏa thuận bị ngăn cấm sự lạm dụng địa vị ưu thế về kinh tế

Một số vặn bản đã được ban hành để đấu trạnh chống việc duy trì giá cao một cách giả tạo và để xóa bỏ vị trí ưu thế, của một số doanh nghiệp, không CQ lợi về mặt kinh tế. Đó là. các điều từ điều 50 đến điều 59 của dụ số 45-1483 ngày 30-6- 1945 do luật Số 77-806 ngày 19-7-1977 sửa đổi và được sắc lệnh số 77-1189 ngày 25-10 1977 bổ sung; sắc lệnh này được làm rõ bởi thông tư ngày 14-2-1978.
Qua những văn bản nói trên thì pháp luật:
1. Nghiêm cấm và sẽ xử lý bằng những chế tài dân sự,hành chính và hình sự những thỏa thuận hoặc liên minh nhằm thu hẹp hoặc làm sai lệch sự cạnh tranh lành mạnh. Đồng thời cũng nghiêm cấm mọi doanh nghiệp có vị trí ưu thế về kinh tế tiến hành những hoạt động trở ngại
2. Tuy nhiên, các hoạt động kể trên sẽ không bị cấm nếu doanh nhân hoặc nhà công nghiệp chứng minh được, rằng những biện pháp loại trừ cạnh tranh đó đã được cơ quan lập pháp hoặc hành pháp quy định, hoặc những biện pháp đó dẫn đến hiệu qủa là phát triển kinh tế.
Như vậy là có những việc liên minh và những việc lạm dụng địa vị ưu thế về kinh tế bị coi là không chính đáng
Theo một thủ tục đặc biệt thì có thể kiện trước “Ủy ban giải quyết những vấn đề về cạnh tranh “. Ủy bàn này có thể tự mình thụ lý hoặc thụ lý theo đơn khởi kiện của Bộ trưởng
Bộ kinh tế, của các tổ chức nghề nghiệp hoặc nghiệp đoàn và của hội những ngưòi tiêu dùng.
Căn cứ vào kiến nghị của “Ủy ban giải quyết những vấn đề vê cạnh tranh”, Bộ trưởng Bộ kinh tế có thể quyết định phạt tiền đối với doanh nhân. Nếu là doanh nghiệp một chu thì có thể bị phạt đến 5 triệu phrăng. Nếu là công ty thì có thể bị phạt đến 5% doanh thu của năm trước.
Nhiều việc vi phạm tự do cạnh trạnh bị xử lý về hình sự. Có thể kể ra những việc sau đây:
-Bán lại một sản phẩm với giá thấp hơn giá đã mua cộng với thuế doanh thu (luật số 63-628 ngày 2-7-1963).
. – Vi phạm những quy định nhằm hạn chế đến tỷ lệ nhất định những chênh lệch giá phát sinh từ việc bán hàng hoặc cụng cấp dịch vụ mà người sản xuất, người nhập khẩu hoặc người buôn bán tiến hành.