1. Khái quát

Tiếp xúc với nền văn minh Âu – Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới – Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.

2. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945

Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là: Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban. Bản dự thảo Hiến pháp hoàn thành khẩn trương và nghiêm túc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá I vào tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông qua bản dự thảo Hiến pháp này. Đó là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Trong phiên họp Quốc hội thông qua hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu: “… Hiến pháp đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”. Và nhấn mạnh rằng: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: dân sinh, dân quyền và dân tộc”.

3. Sau năm 1954

Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế – xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật “gốc” Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình. Ngoài hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật, trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước đã hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp quyền.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5 nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên là “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở phương Đông, Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ chức hoạt động của Nhà nước và quản lý nhà nước.Cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm minh. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”. Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân công lý”. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung toà án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết thêm công bằng, trong sạch.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc. Là người đầu tiên truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc quan điểm của các nhà mácxít về bản chất của pháp luật.
Trước hết, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật chỉ ra đời, tồn tại và phát triển khi xã hội phân chia thành những giai cấp đổi kháng về lợi ích và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Không tồn tại nhà nước và pháp luật phi giai cấp, “siêu giai cấp”. Nhà nước của giai cấp nào lập ra thì pháp luật mang bản chất của giai cấp đó.

4. Tính giai cấp của pháp luật

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua nhà nước thể hiện ý chí tập trung, thống nhất ý chí của giai cấp mình thông qua các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. C.Mác và Ph. Ăngghen, khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Rõ ràng ý chí của giai cấp thống trị, thông qua pháp luật, hướng tới việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm định hướng các quan hệ xã hội phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ và cùng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Như vậy, bản chất giai cấp luôn là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào, nhưng mồi kiểu pháp luật có những cách thể hiện riêng. Tuy nhiên, điểm chung của pháp luật trong các kiểu nhà nước bóc lột trước đó chỉ là ý chí của thiểu số giai cấp thống trị, là công cụ áp bức giai cấp còn pháp luật xã hội chủ nghĩa thì hoàn toàn khác với các kiểu pháp luật trước đó về chất, nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, dân chủ và công bằng xã hội được bảo đảm.
Trong quá trình hoạt động của mình, với tinh thần phê phán sâu sắc và đấu tranh kiên quyết chống pháp luật tư sản và chế độ thuộc địa tàn bạo, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là sự kiện đánh dấu sự thay đổi về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mácxít, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong các nhà nước bóc lột, pháp luật là vũ khí của giai cấp thống trị dùng để cai trị các giai cấp đối kháng, pháp luật đó là ý chí của thiểu số, bảo vệ, duy trì lợi ích của giai cấp thống trị và áp bức đa số nhân dân lao động”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng. Tổ chức cuộc đấu tranh vạch trần bản chất phản nhân dân, phản tiến bộ của nhà nước và pháp luật đế quốc, thực dân: “Pháp luật cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải là ý chí của toàn thể nhân dân ta”. Pháp luật là vũ khí của giai cấp thống trị để trừng trị giai cấp chống lại mình; mục đích đầu tiên của pháp luật bóc lột là trừng trị và áp bức giai cấp; bản chất của pháp luật bóc lột là phản dân chủ, phản tiến bộ. Người khẳng định ở đâu chủ nghĩa thực dân cũng đều biến người dân thuộc địa thành nô lệ, không có quyền sống, quyền được pháp luật bảo hộ. Công lý được đề cao trong các cương lĩnh của các cuộc cách mạng tư sản chỉ là giả hiệu, lừa dân. Trong tham luận tại Đại hội lần thứ 3 Quốc tế công hội đỏ, Hồ Chí Minh chỉ ra ràng: “Bộ luật thuộc địa do những nhà khai hóa Pháp soạn ra chính là để đàn áp bất kỳ một biểu hiện nào có tính tự chủ của người dân bản xứ nói chung và tầng lớp vô sản nói riêng…”.
Cũng từ cách phê phán bản chất của pháp luật phong kiến, tư sản, thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chi rõ: Phong kiến đặt ra luật pháp để trị nông dân. Tư bản đặt ra luật pháp để trị công nhân và nhân dân lao động… Luật pháp của giai cấp bóc lột đặt ra để áp bức các giai cấp bị bóc lột. Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự xã hội ấy chi có lợi cho thực dân phong kiến, không phải có lợi cho toàn thể nhân dân… Đồng thời, Người khẳng định: Không có pháp luật chung chung, mà chi có một bên là pháp luật cách mạng tiến bộ và một bên là pháp luật phản động. Pháp luật của chúng ta là ý chí của giai cấp vô sản, đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động. Pháp luật ta không những đặt ra là để đàn áp kẻ thù của cách mạng mà còn để cải tạo xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục quần chúng làm cách mạng, xây dựng cuộc sống tốt đẹp của mình.

5. PL là ý chí của giai cấp CN và nhân dân LĐ và của cả dân tộc nó BV quyền lợi cho hàng triệu NLĐ

Như vậy, pháp luật của nước ta là ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc, nó bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Pháp luật đó nhằm mục đích đấu tranh, loại trừ áp bức, bất công, thiết lập trật tự và công bằng xã hội. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng pháp luật phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động.
Pháp luật là vũ khí trong tay của một giai cấp, với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, pháp luật là vũ khí để trừng trị bọn phản động, thiết lập xã hội mới, đảm bảo các quyền làm chủ của nhân dân lao động. Ngay khi thực dân Pháp lập Chính phủ bù nhìn tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Ngày nay thực dân Pháp đã đưa ra một chính phủ bù nhìn toàn quốc, để mưu bán Tổ quốc Việt Nam cho chúng. Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ theo pháp luật nước nhà trừng trị bọn phản quốc ấy”. Với thái độ kiên quyết dùng pháp luật để trừng trị bọn phản động, trong cuộc trà lời Điện phỏng vấn của Quốc dân Nhật báo (năm 1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”. Đồng thời, Người khẳng định: Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức tuyên truyền,… Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, phải phục tùng trật tự, phải tuân theo pháp luật của nhân dân.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là pháp luật kiểu mới, khác với pháp luật thực dân phong kiến. Pháp luật đó không chỉ có ý nghĩa như là một công cụ trấn áp nhằm xử lý, trừng trị những kẻ phạm tội mà còn là công cụ tuyên truyền, giáo dục đối với những người lầm đường, lạc lối, biết ăn năn, hối cải. Với quan niệm về pháp luật như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều bản chất giai cấp của pháp luật mà còn hết sức chú ý tính nhân dân và tính dân tộc của pháp luật. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phạm trù “nhân dân” được diễn đạt bằng các danh từ “quốc dân”, “đồng bào”, song đều chi toàn bộ các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội có sự đóng góp vì sự tiến bộ trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Đối với Bác, pháp luật là của nhân dân và để phục vụ nhân dân. Mọi quyền hạn, công lý “đều ở nơi dân”. Hồ Chí Minh cho rằng, trong nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, pháp luật là “của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân”. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính nhân dân của nhà nước và pháp luật kiểu mới:
Trước kia Việt Nam ta vẫn có Nhà nước và chính phủ. Song đó là công cụ của đế quốc và phong kiến để áp bức nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, ta lập ra chính phủ mới, quân đội, công an, tòa án, pháp luật mới của nhân dân để chống kẻ địch trong và ngoài, và để giữ gìn quyền lợi của nhân dân. Để đảm bảo pháp luật thực sự của nhân dân, trong quá trình xây dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh cho rằng: Bản Hiến pháp chúng ta thảo ra… phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân… Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến của nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là một bản Hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng, những giá trị công bằng, độc lập, tự do, chân chính cần phải được thể hiện trong nội dung pháp luật của nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước là tạo ra những khuôn mẫu, chuẩn mực để công dân lựa chọn hành vi của mình sao cho phù hợp với lẽ phải, bào đảm công bằng, tự do và trật tự xã hội. Chính vì thế tư tưởng của Hồ Chủ tịch về công tác xây dựng pháp luật luôn xoay quanh một trục chính đó là vì dân, lấy dân làm gốc “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, do đó “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Bàn về Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Hiến pháp Việt Nam phải ghi rõ những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ”.
Tính nhân dân trong xây dựng pháp luật không chỉ thể hiện ờ chỗ nội dung các đạo luật ghi nhận quyền và lợi ích của nhân dân mà còn thể hiện ở chỗ nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng các đạo luật. Việc xây dựng pháp luật phải xuất phát từ sáng kiến của nhân dân, có sự tham gia đóng góp ý kiến của các cơ quan đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Do hoàn cảnh chiến tranh việc xây dựng Hiến pháp năm 1946 được soạn thảo và thảo luận trong phạm vi Quốc hội, không được tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm ra theo một hoàn cảnh thực tế”. Trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1959, việc bảo đảm sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân cả nước vào xây dựng pháp luật đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Tổng kết qua hai đợt thảo luận về Hiến pháp năm 1959, Hồ Chủ tịch viết: “Nhân dân ta đã hăng hái sử dụng quyền dân chủ của mình để xây dựng Hiến pháp của mình. Nhân dân các địa phương, các cơ quan đoàn thể, các đơn vị bộ đội, Hội đồng nhân dân các tình, nhiều đồng bào ở miền Nam và kiều bào ở nước ngoài, các báo chí đã góp nhiều ý kiến”. Vì thế bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa và thực sự dân chủ. Cùng với tính nhân dân, pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ nét tính dân tộc gắn liền với chù nghĩa xã hội. Ngay từ lúc ra đi tim đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã có dịp chứng kiến và đối chiếu cảnh “vong nô” của nước nhà với tình trạng nô lệ, bất bình đẳng của người dân ở nhiều nước thuộc địa trên thế giới. Trong những trường hợp như vậy, Người nhận ra rằng không thể có pháp luật dân chủ tiến bộ đích thực được. Pháp luật theo tư tưởng của Người luôn gắn chặt với quyền tự quyết cho dân tộc ta. Tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ và nhất quán một nguyên tắc: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” vì “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ năm 1945 mà Người thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố trước quốc dân và toàn thế giới là sự khẳng định trên thực tế, không chỉ tư tưởng mà bằng hành động của Người về khát vọng lớn lao về nền độc lập cho nước nhà. Theo Người, chỉ khi nào giành được độc lập cho dân tộc thì nhân dân Việt Nam mới thực sự có nhà nước và pháp luật của chính mình. Những trích dẫn về quyền cơ bản của con người trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyển và dân quyền của Pháp (1789) chính là cơ sở để dân tộc ta tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Pháp luật đích thực chỉ có thể tồn tại trong một nước tự do và độc lập. Và hơn thế, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Tư tưởng gắn liền độc lập dân tộc với cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội đã hình thành rất sớm ở Người, nhất là từ khi Người bắt gặp Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin (năm 1920). Tư tưởng đó xuyên suốt cuộc đời cách mạng của Người và trở thành mong muốn giản dị: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Muốn vậy, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản” là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Tóm lại, bản chất pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự kết hợp hài hòa giữa chúng với nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức rất rõ về mối quan hệ mật thiết không tách rời nhau giữa nhà nước và pháp luật, trong mối quan hệ đó, pháp luật vừa là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước, vừa là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý các công việc của mình và của xã hội. Pháp luật đúng đắn sẽ tạo nên sự ổn định của Nhà nước, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, duy trì trật tự xã hội.
Trước Cách mạng Tháng Tám, nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhà nước trong thời kỳ đó không phải là Nhà nước của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội mà chỉ là bộ máy chuyên chế của một nhóm thiểu số bọn địa chủ phong kiến cấu kết với những kẻ thực dân. Vì vậy, pháp luật trong xã hội lúc bấy giờ chủ yếu được sử dụng như là công cụ trấn áp, chuyên chính đối với quần chúng nhân dân. Hồ Chủ tịch đã từng đúc kết rằng, thứ công lý mà thực dân Pháp thi hành ở nước ta là công lý “quả cân và thanh kiếm”. Trong quá trình đấu tranh vì độc lập cho dân tộc và các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được pháp luật không chi đảm bảo các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân mà còn là cơ sở để xây dựng một chính quyền của nhân dân. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp để xây dựng một nhà nước với chế độ pháp luật thực sự dân chủ ở Việt Nam. Ngay từ năm 1926, trong Nhời hô hoán cùng vạn Quốc hội, bản yêu sách viết bằng tiếng Việt, Người đã đề cập đến việc “xếp đặt một nền Hiến pháp theo lý tưởng dân quyền”… Đó chính là cơ sở vững chắc nhất để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trước thế giới quyền độc lập, tự do hoàn toàn của nước Việt Nam, tuyên bố xây dựng chế độ nhà nước, pháp luật dân chủ ở Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập được các nhà nghiên cứu đánh giá là áng văn lập quốc vĩ đại mở ra kỷ nguyên mới của Nhà nước và pháp luật nước ta.
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày trước Hội đồng Chính phủ những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong sáu nhiệm vụ thì vấn đề thứ ba được đề cập là: Trước chúng đã ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Sau Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, Quốc hội lập hiến được thành lập, tại kỳ họp thứ hai (11-1946), sau khi nghe ủy ban dự thảo Hiến pháp thuyết trình, Quốc hội khóa I đã thảo luận và thông qua Hiến pháp vào ngày 9-11-1946. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp khẳng định những thành quả của Cách mạng Tháng Tám, cụ thể hóa đường lối chiến lược của Đảng trong giai đoạn mới và làm cơ sở cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật kiểu mới ở Việt Nam. Đồng thời, Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho việc thiết lập một Nhà nước của nhân dân, thiết lập trật tự xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Cùng với việc xây dựng Hiến pháp năm 1946, ngay từ ngày đấu thành lập nước Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã ký sắc lệnh 47 về việc tạm giữ lại các luật lệ cũ chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập tự do. Theo Người, quản lý nhà nước, quản lý xã hội không thể thiếu pháp luật. Chính vì vậy ngay những ngày đầu của chính quyền mới non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một loạt những sắc lệnh cấp bách cần thiết cho việc xây dựng, củng cố chính quyền, ổn định đời sống nhân dân. Tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội thể hiện sự tiếp thu, kế thừa các giá trị xã hội của pháp luật, kể cả pháp luật trong lịch sử, Người không có ý định phá bỏ tất cả những di sản pháp luật của chế độ cũ, mà có sự lựa chọn các quy định của pháp luật cũ có thể tạm duy trì trong chế độ mới. Theo Người: “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn xa, nhất quán về tầm quan trọng, về vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, nên Người luôn nhắc nhở cơ quan nhà nước phải chú ý lo việc sửa đổi, bổ sung các đạo luật cho ngày càng hoàn chỉnh hơn, phù hợp hơn với điều kiện, hoàn cảnh mới phát sinh. Trong Hội nghị học tập của cán bộ tư pháp (1950) Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta cũng thấy luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú có trách nhiệm góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”. Để phát huy vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Người còn hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, giáo dục ý thức làm chủ của nhân dân. Khi chưa giành được chính quyền thi tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng. Khi có chính quyền, có Hiến pháp, pháp luật thì phải tuyên truyền Hiến pháp, pháp luật.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật thì không chỉ là dùng pháp luật để quản lý xã hội mà chính các cơ quan nhà nước cũng phải làm theo pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, các cá nhân được Nhà nước trao quyền đều bị xử lý theo pháp luật. Hơn nữa, trong chế độ dân chủ, pháp luật trở thành đại lượng công bằng, thước đo các giá trị xã hội, việc thực hiện nghiêm chính pháp luật không có ngoại lệ. Điều đó đòi hỏi các cơ quan nhà nước cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật và mọi vi phạm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, các tổ chức và cá nhân đều phải bị xử lý bằng pháp luật. Có như vậy pháp luật mới phát huy được vai trò trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Điều này được Người đặc biệt chú ý trong điều kiện đất nước mới giành được độc lập, trình độ dân trí còn hạn chế, nhiều hủ tục của chế độ cũ còn rơi rớt lại, các thế lực thù địch ra sức chống phá chính quyền non trẻ. Trong kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (11-1946), Người nói: Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh đến những người làm việc ờ các ủy ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng luật mà trị những kẻ ăn hối lộ – đã trị, đang trị và sẽ trị kỳ hết.Những ví dụ điển hình về tư tưởng này của Bác được thể hiện cụ thể trong thực tiễn lịch sử khi Người đã chuẩn y án từ hình hai cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước là Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp Trương Việt Hùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán cán bộ, đảng viên không chấp hành pháp luật của Nhà nước, lợi dụng quyền thế vi phạm pháp luật. Người chỉ ra “có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử phạt kịp thời… Như vậy là kỷ luật chưa nghiêm”. Đồng thời, Người chỉ rõ: “trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”. Trong những ngày đầu của chính quyền nhân dân, tháng 1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Quốc lệnh quy định cụ thể 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt để cho quân dân biết những tội nên tránh và những việc nên làm. Thông qua đó, pháp luật góp phần quan trọng trong việc hạn chế và ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá nhân được Nhà nước trao quyền.
Tài liệu tham khảo: Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, NXB Pháp lý, Hà Nội.