1. Tư vấn xác định mức cấp dưỡng tiền nuôi con khi ly hôn ?

Kính chào luật sư, xin hỏi: Tôi và chông ly hôn đầu năm 2016, và anh ấy cấp dưỡng nuôi con là 500.000đ /tháng từ tháng 4/2016. Khi đó hai bên thỏa thuận sẽ tăng tiền cấp dưỡng nuôi con khi anh ấy ra trường đi làm(từ tháng9/2016).Tuy nhiên đến nay anh ấy chưa nạp đồng nào tiền cấp dưỡng nuôi con và cũng không thỏa thuuận tăng lên.
Vậy bây giờ tôi muốn yêu cầu tăng tiền cấp dưỡng nuôi con thì phải làm thế nào ạ. Tôi đã hỏi tòa án và tòa yêu cầu phải có bảnglương của chồng, tuy nhiên việc xin bảng lương bên ngành công an rất khó khăn( hiện tại anh ấy đang công tác trong nhành công an, lương trung úy trên 7 triệu đồng/tháng) nếu không có bảng lương thì toàn có thể tìm cách để gải quyết không ạ ?
Rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư. Xin trân trọng cảm ơn.

Luật sư trả lời:

Công ty luật LVN Group tư vấn về việc cấp dưỡng cho con :

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận ăn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yêu của người cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Cụ thể các quy định trong Luật hôn nhân và gia đình gồm:

Điều 110. Nghĩ vụ cấp dưỡng của cha. mẹ đối với con

Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.

Điều 116. Mức cấp dưỡng

1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy bạn là người giám hộ của con theo quy định, trường hợp có lý do chính đáng bạn có thể thỏa thuận với chồng cũ về mức cấp dưỡng trong trường hợp không thỏa thuận được bạn có thể gửi đơn ra tòa án yêu cầu tòa án giải quyết. Những lý do chính đáng có thể là: Nhu cầu thực tiễn của con tăng, điều kiện đời sống xã hội thay đổi, chồng bạn có thu nhập cao hơn.

Nguyên tắc theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì đương sự có quyền và nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ cho tòa. Cụ thể

Điều 6. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.

2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.

Như vậy dương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, nhưng trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn. Trường hợp đương sự đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình thì được thực hiện theo quy định Tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có như sau:

Điều 106. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ

1. Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, đương sự phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp; lý do cung cấp; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người có yêu cầu.

2. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.

Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; tài liệu, chứng cứ cần thu thập; lý do mình không tự thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần thu thập.

3. Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn

15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Như vậy trong trường hợp của bạn nếu bạn gặp khó khăn trong việc thu thập bảng lương của chồng thì bạn hoàn toàn có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi số: 1900.0191 để được giải đáp. Trân trọng./.

2. Thay đổi người trực tiếp nuôi con khi vợ đi nước ngoài ?

Chào luật LVN Group. Vợ chồng tôi có một con sinh 2013 và đã ly hôn tháng 5/2015 .Sau ly hôn vì con còn nhỏ nên tôi đồng ý để vợ chăm sóc. Tôi được thăm nom con nhưng tui thấy vợ tôi không đồng ý cho tôi đưa con tôi đi chơi hay về nhà nội. Khi tôi xuống thăm con tôi gia đình họ nhiều lần buông lời xúc phạm. Tháng 10 vừa qua tôi biết vợ tôi đi nước ngoài để con ở nhà cho hai cụ đã gần 70 tuổi chăm sóc.
Vậy tôi muốn hỏi tôi đưa con tôi về bên nhà tôi chăm sóc có được không ?
Mong các bạn tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn

Thay đổi người trực tiếp nuôi con khi vợ đi nước ngoài ?

Luật sư tư vấn luật hôn nhân gia đình gọi:1900.0191

Luật sư tư vấn:

Khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Mặt khác, tại khoản 2 Điều 83 có quy định:

2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì vậy, bạn hoàn toàn có thể đến thăm con và gia đình nhà vợ cũ của bạn không có quyền ngăn cản bạn thăm nom, chăm sóc con.

Hiện tại, vợ của bạn không trực tiếp nuôi con, bố mẹ vợ thì đã già yếu, do đó, bạn hoàn toàn có thể yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi ly hôn theo quy định tại Điều 84. Theo đó:

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

Những điều cần lưu ý: Bạn cần lưu ý về thủ tục thay đổi người trực tiếp nuôi con Tham khảo bài viết liên quan: Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi tòa đã ấn định ?

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

3. Không đăng ký kết hôn, con mang họ mẹ thì ai sẽ là người nuôi con ?

Xin chào công ty Luật LVN Group, tôi có vướng mắc kính mong công ty tư vấn như sau: Tôi và chồng cưới nhau được một năm. Tôi mang thai nhưng chúng tôi chưa Đăng ký kết hôn. Tôi sinh con được 05 ngày thì chồng tôi bỏ về quê sống. Tôi phải nhờ mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong thời gian đó. Vì chưa có đăng ký kết hôn nên con tôi mang họ mẹ. Hiện nay, con tôi đã được một tháng tuổi thì chồng tôi bảo về quê chồng tôi sống. Nhưng khi về đó sống, tình cảm của chồng tôi không như trước và chồng tôi muốn giữ đứa con của tôi ở lại quê chồng và không muốn tôi tiếp tục nuôi dưỡng con.
Vậy thưa Luật sư của LVN Group, nếu như vậy thì tôi có quyền khởi kiện và tôi có quyền đòi nuôi con hay không?
Mong sớm nhận được hồi đáp của Luật sư của LVN Group, tôi xin cảm ơn!

Trả lời:

Theo như thông tin bạn cung cấp, hai bạn sống chung với nhau như vợ chồng nhưng lại không đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, do đó, căn cứ theo Điều 14, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.”

Như vậy, giữa hai bạn chỉ sống chung như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, chính vì vậy giữa hai bạn không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, về nguyên tắc, khi hai bạn không chung sống với nhau nữa thì hai bạn không cần làm thủ tục ly hôn tại Tòa án. Hoặc, trong trường hợp hai bạn muốn chấm dứt quan hệ giữa hai người một cách rõ ràng thì hai bạn có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ hôn nhân giữa hai bạn theo Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 53. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”

Theo như thông tin bạn cung cấp, bạn đang lo lắng chồng bạn có ý định giành quyền nuôi con với bạn, vì vậy, nếu hai bạn không thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con sau khi hai bạn không chung sống với nhau như vợ chồng thì bạn có quyền nộp đơn lên Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề nuôi con cho hai bạn. Cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

“Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.”

Dẫn chiếu đến Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Như vậy, trong trường hợp này, con của bạn mới được 01 tháng thì bạn sẽ được giao trực tiếp nuôi dưỡng. Trừ một trong hai trường hợp sau: Một là, hai bạn thỏa thuận với nhau để cho chồng bạn nuôi dưỡng con nhằm đáp ứng lợi ích tốt nhất về mọi mặt cho con của bạn. Hai là, bạn không có đủ điều kiện về thu nhập, công việc ổn định, sức khỏe, nơi ở ổn định, không có đủ khả năng để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con bạn thì Tòa án sẽ giao cho chồng bạn trực tiếp nuôi dưỡng nếu chồng bạn có đủ khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con tốt hơn bạn.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi về yêu cầu của bạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi số:1900.0191 để được giải đáp.

4. Tư vấn thủ tục yêu cầu thay đổi quyền trực tiếp nuôi con ?

Tôi và cô ấy lấy nhau năm 2010, chúng tôi có với nhau một cậu con trai sinh ngày 1/1/2011. Do mâu thuẫn vợ chồng, tháng 7.2014 cô ấy đơn phương gửi đơn ra tòa ly hôn. Tháng 9/2014 Tòa án chấp nhận ly hôn và cô ấy được quyền nuôi con. Trong quá trình nuôi con, cô ấy đã bế con đi và không cho tôi gặp, nói chuyện với con. Tôi muốn đòi lại quyền nuôi cháu.
Tôi và cô ấy lấy nhau năm 2010, làm cùng một công ty, tôi làm kỹ thuật, còn cô ấy là công nhân. Chúng tôi có với nhau một cậu con trai sinh ngày 1/1/2011. Do mâu thuẫn vợ chồng, tháng 7.2014 cô ấy đơn phương gửi đơn ra tòa ly hôn.Tháng 9/2014 Tòa án chấp nhận ly hôn và cô ấy được quyền nuôi con. Chúng tôi ở nhà tập thể công ty, tôi đã nhượng lại phòng cho cô ấy ở và nuôi con. Nhưng sau đó 30/11 cô ấy đã bỏ công ty và bế con đi đâu tôi không biết. Cô ấy thing thoảng gọi cho tôi chỉ để hỏi tiền, còn con thì cô ấy không cho tôi nói chuyện, không cho tôi biết con ở đâu, thế nào…Giờ con đã hơn 3 tuổi, tôi muốn đòi lại quyền nuôi cháu, vì điều kiện kinh tế và gia đình cô ấy rất phức tạp.
Vậy, Giờ tôi phải làm những gì để đòi lại quyền nuôi con? Và nếu tòa chấp nhận cho tôi quyền nuôi con thì tôi phải làm gì để buộc cô ấy đưa con về?
Người hỏi: M.H.Q

Yêu cầu thay đổi quyền trực tiếp nuôi con

Yêu cầu thay đổi quyền trực tiếp nuôi con, gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào anh, Như anh trình bày ở trên thì cô ấy đang xâm phạm đến quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh. Việc anh thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng của anh đối với con hoàn toàn quyền lợi chính đáng, được Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tại điều 83 như sau:

“Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con”.

Đầu tiên, anh có thế làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án giải quyết cho thi hành vấn đề thăm nom, chăm sóc con chung theo án tòa. Cơ quan thi hành án sẽ yêu cầu cô ấy thực hiện đúng nghĩa vụ của mình về việc thăm nom con.

Sau đấy, anh nên thỏa thuận với cô ấy về việc thay đổi quyền yêu cầu nuôi con. Nếu anh và cô ấy có thể thỏa thuận được với nhau thì anh có thể yêu cầu tòa án thay đổi quyền trực tiếp nuôi con. Trong trường hợp không thỏa thuận được với cô ấy anh vẫn có thể yêu cầu tòa án thay đổi quyền trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về vấn đề Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.

4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.

5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:

a) Người thân thích;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ”.

Trân trọng./.

5. Không đăng ký kết hôn có được dành quyền nuôi con không ?

Chào Luật sư của LVN Group, Cho hỏi em: Năm nay 24 tuổi và đang làm mẹ đơn thân. Em có 1 đứa con riêng 3 tuổi. E đi làm và em có quen bạn trai. Em và bạn trai có chung một đứa bé nhưng bạn trai em ko quan tâm. Em mang bầu và sinh bé 1 mình. Khi em sinh em bé, anh ấy có gửi cho em một số tiền để em sinh nở. Đến bây giờ cha của bé đòi kiện và dành quyền nuôi con với em.
Anh ấy nói em ko có quyền dành con với anh ấy vì kinh tế của em bấp bênh, anh ấy ổn định hơn em. Và em con đang nuôi con riêng nữa nên em không có quyền nuôi con nữa. Anh ấy buộc em ra hầu tòa. Tụi em chỉ làm đám cưới, chưa đăng ký kết hôn và khai sinh của bé chỉ có tên mẹ, không có tên bố. Anh ấy xúc phạm em rất nhiều. Em phải làm sao đây ạ?
Giúp em với. Em cám ơn Luật sư của LVN Group!

>> Luật sư tư vấn luật hôn nhân trực tuyến, gọi:1900.0191

Luật sư tư vấn:

Nhận thấy, theo khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
‘”Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn mà kết hôn”, đồng thời “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.”
Như vậy, quan hệ của anh chị không được công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì mới chỉ là hình thức làm đám cưới.
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con”

Do vậy, việc giải quyết ai có quyền nuôi con trong trường hợp này sẽ tuân theo quy định tại Chương V – Quan hệ giữa cha mẹ và con của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể:

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Điều 82 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:

Điều 82. nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Điều 83 quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Điều 83. nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn

1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo khoản 2, điều 84 Luật HN-GĐ, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên. Trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Như vậy, trong tình huống này, xét thấy, đứa bé dưới 36 tháng tuổi nên trước tiên Tòa án sẽ xem xét điều kiện của chị.

Người chồng nhận định rằng chị không đủ điều kiện kinh tế nuôi con, nhưng anh ấy phải đưa ra được chứng cứ trước Tòa án để chứng minh cho nhận định này, vậy nên nếu chị có căn cứ chứng minh được rằng mình đủ điều kiện kinh tế, đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị vẫn sẽ được quyền nuôi con. Còn người chồng vẫn có quyền cũng như nghĩa vụ theo pháp luật quy định.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận Luật sư Hôn nhân và gia đình – Công ty luật LVN Group