Năm 1996 Cậu Sáu (1 trong những người con) tự ý đứng ra kê khai với chính quyền để được quyền sử dụng đất trên phần đất thổ mộ này mà không có sự đồng ý của 3 người đồng sở hữu còn lại. Đến thời điểm hiện nay khi 4 người con (người đứng tên trong giấy cam kết phân chia thổ mộ) đều mất. Một trong những người con của cậu Sáu (người tự ý đứng chủ quyền đất) lại tự động phân chia phần đất thổ mộ này cho các con của cậu Sáu.
Với sự việc trên chúng tôi muốn có vài câu hỏi như sau: Việc tự ý kê khai sở hữu quyền sử dụng đất trên phần đất thổ mộ này của cậu Sáu tôi là đúng không? Tôi là cháu ngọai (hiện tại mẹ đã mất) thì việc phân chia này tôi có quyền can thiệp để giữ lại phần đất thổ mộ này hay không? Nếu được phân chia thì chia như thế nào là đúng?
Rất mong được sự tư vấn từ quý Luật sư của LVN Group. Chân thành cám ơn! Trân trọng.
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mụctư vấn pháp luật đất đai của Công ty luật LVN Group
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.0191
Trả lời:
Công ty Luật LVN Group đã nhận được câu hỏi của bạn. Cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Vấn đề của bạn chúng tôi xin được giải đáp nhứ sau:
Căn cứ pháp lý
Luật đất đai 2013
Nội dung
Khoản 2- Điều 98- Luật đất đai 2013 quy định về nguyên tắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:
“Điều 98. Nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
2. Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.”
Theo đó, trong trường hợp này 4 người con đã thỏa thuận dành riêng 1 mảnh đất được thừa kế để làm đất thổ mộ chung (mỗi người đều có 1 giấy cam kết và có xác nhận của địa phương), tuy nhiên đến năm 1996, 1 trong những người con đã tự ý đứng ra kê khai với chính quyền để được quyền sử dụng đất trên phần đất thổ mộ này mà không có sự đồng ý của 3 người đồng sở hữu còn lại là hoàn toàn vi phạm nguyên tắc đã nêu ở trên. Do đó việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người con này là trái pháp luật và không có giá trị pháp lý. Bạn có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất thổ mộ kia của người cậu này.
Cụ thể quy định về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trái pháp luật như sau:
“Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.
3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.”
Sau khi nhà nước đã thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cậu bạn, bạn có thể đưa ra giấy cam kết chia phần thổ mộ của 4 người (đã có xác nhận của chính quyền) để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chung có tên của những người đại diện thừa kế mảnh đất từ 4 người con ban đầu. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng sở hữu, việc phân chia, tách thửa là do sự thỏa thuận của bạn với những những người đồng sở hữu còn lại.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email Tư vấn pháp luật đất đai qua Email hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 1900.0191. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng!
BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT ĐẤT ĐAI.