1. Tư vấn về thủ tục và chi phí sáp nhập vào Công ty ?

Kính chào Luật LVN Group, Tôi có một vấn đề mong Luật sư của LVN Group giải đáp: Chúng tôi là Công ty Hagimex hoạt động về lĩnh vực thực phẩm, xin tư vấn như sau: Hagimex là Cty mẹ, loại hình Cổ phần, đầu tư 100 vốn vào Cty con là TNHH, hiện tại 2 Cty có cùng 1 địa điểm trụ sở chính tại Hà nam.

Do nhu cầu kinh doanh, chúng tôi muốn sát nhập công ty con vào công ty mẹ. Theo thông tin hiện tại thì có 2 hình thức:

1. Giải thể Cty con và Cty mẹ thu hồi lại quyền lợi, nghĩa vụ.

2. Chuyển Cty con từ TNHH thành cổ phần rồi Sáp nhập vào Cty mẹ.

Chúng tôi muốn chọn cách thứ 2 hơn vì muốn duy trì đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của Cty con sau khi sáp nhập.

Tôi rất mong nhận được lời tư vấn vào địa chỉ email này. Kính thư!

Người gửi: NT Anh

>> Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

Luật sư tư vấn:

Khi bạn muốn sáp nhập Công ty con vào Công ty mẹ thì đồng nghĩa với việc chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ của Công ty con.

+ Theo trường hợp thứ nhất, nếu như giải thể Công ty con thì phải tuân theo pháp luật về giải thể, Công ty con phải thanh toán toàn bộ các khoản nợ đến hạn, chưa đến hạn cùng chi phí giải thể doanh nghiệp.Sau đó phần vốn góp còn lại sẽ được hoàn lại cho Chủ sở hữu (Công ty mẹ). Như vậy sẽ gây khó khăn cho Công ty mẹ.

+ Theo cách thứ hai, nếu như chuyển đổiđối với Công ty con (từ Công ty TNHH sang Công ty Cổ phần) thì sẽ phải kêu gọi vốn góp từ bên ngoài để đủ điều kiện ít nhất là 3 cổ đông

Nếu như bên phía Công ty bạn không gặp trở ngại hoặc khó khăn nào khi chọn cách này cho việc sáp nhập hai công ty thì đây sẽ là lựa chọn có thể chấp nhận được.

Thủ tục sát nhập doanh nghiệp theo quy định Luật Doanh nghiệp 2020:

+ Các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải gồm các nội dung chủ yếu sau: tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; cách thức, thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập;

+ Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và tiến hành đăng ký doanh nghiệp công ty nhận sáp nhập theo quy định của Luật này. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua;

Qua những phân tích ở trên, hy vọng phần nào có thể giải đáp được cho thắc mắc của bạn. Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty chúng tôi. Trân Trọng!

2. Những yếu tố cơ bản để thực hiện sáp nhập và mua lại thành công ?

Có nhiều cách thức, các bước công việc để thực hiện M&A, tuy nhiên vấn đề cần quan tâm trước tiên đó là hình thức pháp lý mà pháp luật cho phép để thực hiện giao dịch. Hình thức pháp lý để thực hiện giao dịch M&A cũng rất phong phú và khác nhau.

Đó là các trình tự, điều kiện do pháp luật quy định mà các bên tham gia giao dịch phải tuân thủ. Không những thế, hình thức pháp lý của giao dịch M&A sẽ quyết định các công việc cụ thể khác cần có để tiến hành giao dịch M&A cũng như quyết định chúng sẽ được thực hiện như thế nào và tại thời điểm nào.

Thị trường giao dịch M&A tại Việt Nam tuy còn non trẻ, tuy nhiên với mức độ thị trường hiện nay, hình thức pháp lý (khung pháp lý) để các giao dịch này được triển khai về cơ bản đã đầy đủ. Khác với quan điểm của một số người cho rằng hành lang pháp lý cho hoạt động M&A của Việt Nam còn thiếu và rời rạc, chưa hỗ trợ tốt cho hoạt động M&A phát triển, chúng tôi cho rằng M&A có nội dung đa dạng và phức tạp do vậy rất khó cũng như không cần thiết phải hệ thống hóa các quy định của pháp luật điều chỉnh tất cả các nội dung M&A một cách tập trung. Hiện nay các quy định của pháp luật Việt Nam chỉ có một số vấn đề riêng lẻ cần giải quyết để làm rõ ràng hơn nữa môi trường pháp lý cho hoạt động M&A, như quy định về nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam, xác định thế nào là nhà đầu tư nước ngoài một cách thống nhất (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phải là nhà đầu tư nước ngoài không? Vốn đầu tư nước ngoài là bao nhiêu để coi là công ty có vốn đầu tư nước ngoài?)…

Sau khi đã xác định được các vấn đề như đã nêu trên, tùy vào nội dung và hình thức giao dịch M&A cụ thể (mua bán cổ phần hay sáp nhập hợp nhất…) mà các bên tham gia triển khai các công việc chi tiết. Thông thường, các công việc mà các bên tham gia cần thực hiện là:

Xác định các doanh nghiệp mục tiêu cho giao dịch M&A: Để đảm bảo M&A thành công, các bên cần lựa chọn nhiều hơn một doanh nghiệp mục tiêu nếu có thể được. Doanh nghiệp mục tiêu ở đây có thể được hiểu là bên mua hoặc/và bên bán chứ không phải chỉ là bên bán, điều này xuất phát từ chính nhu cầu thực hiện M&A là của cả hai bên chứ không phải của riêng một bên bán hay bên mua. Hơn nữa khi có nhiều doanh nghiệp mục tiêu, các bên sẽ có nhiều phương án và điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán giao dịch M&A.

Để xác định được doanh nghiệp mục tiêu không phải dễ dàng đối với tất cả các trường hợp, nhất là trong trường hợp muốn xác định nhiều doanh nghiệp mục tiêu. Việc xác định doanh nghiệp mục tiêu về bản chất là lấy được các thông tin chính xác về những doanh nghiệp mục tiêu, vì vậy không phải bên tham gia M&A nào cũng dễ dàng có được các thông tin này. Có nhiều cách thức để tiếp cận và có được thông tin. Trong số đó, cách thức hợp tác với những tổ chức tài chính (như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư…) là một trong những cách thức hiệu quả để đạt được mục đích.

Những yếu tố cơ bản để thực hiện sáp nhập và mua lại thành công

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài điện thoại: 1900.0191

Xác định giá trị giao dịch: Công việc này không hoàn toàn đồng nhất với hoạt động định giá doanh nghiệp. Thực chất, định giá doanh nghiệp là một công cụ để các bên có thể xác định được giá trị giao dịch, căn cứ vào giá trị doanh nghiệp được định giá và các điều kiện cụ thể khác mà các bên tham gia giao dịch có thể đàm phán và thương lượng các mức giá giao dịch M&A khác nhau. Nhiều quan điểm chỉ coi trọng việc định giá doanh nghiệp của bên mua, tuy nhiên khi xem xét rộng hơn ở khái niệm xác định giá trị giao dịch thì bên bán cũng chính là bên có nhu cầu cần phải xác định giá trị doanh nghiệp không kém bên mua. Nếu bên bán không định giá doanh nghiệp và không có cơ sở để tính toán giá trị của mình là bao nhiêu thì sẽ rất bất lợi trong đàm phán giao dịch M&A. Hoặc ngược lại, có thể gây ra những khó khăn không cần thiết, thậm chí là bỏ lỡ cơ hội giao dịch M&A khi đưa ra những mức giá quá cao, không có cơ sở.

Đàm phán, giao kết và thực hiện thỏa thuận, hợp đồng giao dịch M&A: Quá trình này dẫn đến một kết quả phản ánh tập trung nội dung của giao dịch M&A, đó chính là thỏa thuận và hợp đồng giao dịch M&A được giao kết giữa các bên. Có thể nói quá trình này là rất quan trọng đối với giao dịch M&A, nếu hợp đồng M&A không phản ánh đủ và chính xác tất cả các kết quả của những công việc trước đó, các mong muốn và kỳ vọng của các bên hay hạn chế tối đa các rủi ro thì những công việc đã thực hiện sẽ không có giá trị hoặc giảm giá trị đi rất nhiều cũng như mục đích M&A có thể bị ảnh hưởng không tốt.

Hợp đồng M&A không phải chỉ là yếu tố pháp lý. Hợp đồng M&A là sự phối hợp một cách hài hòa các yếu tố có liên quan đến giao dịch M&A khác như tài chính, kinh doanh… Chỉ khi kết hợp một cách hoàn chỉnh các yếu tố có liên quan thì Hợp đồng M&A mới thật sự là công cụ để bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia giao dịch.

Đàm phán hợp đồng có thể thực hiện tại bất cứ giai đoạn nào, thông thường các bên chỉ chính thức tiến hành đàm phán khi đã có được một lượng thông tin nhất định về nhau cũng như hiểu được mục đích của nhau.

Giao kết hợp đồng là công đoạn cuối cùng của việc thỏa thuận giao dịch M&A. Đó là khi các bên đã hiểu rõ về nhau cũng như hiểu rõ về mục đích và yêu cầu của mỗi bên, hiểu rõ các lợi ích và rủi ro khi thực hiện M&A. Hợp đồng là sự thể hiện và ghi nhận những cam kết của các bên đối với giao dịch.

Thực hiện hợp đồng là bước triển khai các cam kết, nghĩa vụ của mỗi bên để đáp ứng quyền lợi của bên kia, ví dụ: thanh toán tiền giao dịch, triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của đối tác chiến lược…. Có những hợp đồng, thời gian từ khi giao kết đến khi thực hiện xong xuôi các nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên không phải là ngắn. Do vậy, nếu không có những dự liệu chính xác về các vướng mắc và rủi ro có thể gặp phải trong quá trình thực hiện hợp đồng thì rất dễ dẫn tới sự vi phạm hợp đồng của một hoặc hai bên, mặc dù đó có thể là do nguyên nhân khách quan chứ không phải do sự cố tình của bên vi phạm.

Trên đây là một số vấn đề cơ bản để có thể tiến hành giao dịch M&A hiệu quả. Những vấn đề này đều là những kiến thức chuyên ngành của nhiều lĩnh vực, từ kinh doanh, tài chính cho đến pháp lý… Vì vậy, để có được giao dịch M&A hiệu quả, đáp ứng đúng yêu cầu và mong muốn, hạn chế tối đa các rủi ro có thể gặp phải, các bên tham gia giao dịch nên sử dụng tư vấn của tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực M&A. Đây cũng là xu hướng tất yếu của hoạt động M&A trong thời gian tới. Do đó, khi doanh nghiệp có ý định giao dịch M&A cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định chính xác loại giao dịch M&A doanh nghiệp dự định tiến hành là loại giao dịch nào, có thể là: (i) Sáp nhập, mua lại chủ yếu theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp; (ii) Sáp nhập, mua lại như một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu theo quy định của pháp luật về đầu tư; (iii) Sáp nhập, mua lại như một hình thức tập trung kinh tế chủ yếu chịu sự điều chỉnh chủ yếu của pháp luật cạnh tranh; (iv) Mua cổ phần chủ yếu theo các quy định của pháp luật chứng khoán; (v) Sáp nhập, mua lại doanh nghiệp nhằm mục đích phát triển thương hiệu chủ yếu chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ…Việc xác định loại giao dịch M&A sẽ giúp cho các bên xác định, nhận thức cụ thể loại giao dịch mà mình tiến hành; luật điều chỉnh chủ yếu trong giao dịch M&A; cơ chế, quy trình tiến hành giao dịch; định hướng việc thiết lập các điều khoản trong hợp đồng M&A; và xác định nghĩa vụ thông tin, thông báo đến cơ quan quản lý của các bên…

Thứ hai, thẩm định pháp lý (legal due diligence) và thẩm định tài chính (finance due diligence) của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại là các công việc quan trọng. Thẩm định pháp lý của doanh nghiệp giúp cho bên mua hiểu rõ tư cách pháp lý, các quyền và nghĩa vụ pháp lý, chế độ pháp lý đối với các loại tài sản, hợp đồng đối với người lao động, hồ sơ đất đai, xây dựng, đầu tư… để trên cơ sở xác định tình trạng và các rủi ro pháp lý đưa ra quyết định mua doanh nghiệp. Thẩm định pháp lý thường do các Luật sư của LVN Group thực hiện thay mặt cho bên mua. Vì vậy, Luật sư của LVN Group tư vấn M&A đóng vai trò rất quan trọng và kết luận về hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp bị mua, bị sáp nhập là cơ sở để các bên đưa ra quyết định mua bán, sáp nhập hay từ chối mua bán, sáp nhập. Sau thẩm định pháp lý, doanh nghiệp bị mua, bị sáp nhập cũng có thể tiến hành các thủ tục nhằm tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu của bên mua. Thẩm định tài chính thường do các công ty kiểm toán hay kiểm toán viên độc lập thực hiện. Về nguyên lý thì các bên trong giao dịch M&A thường có mục đích kinh tế trái chiều nhau và điều này có thể ảnh hưởng đến việc nâng và hạ giá doanh nghiệp. Bên mua muốn mua với giá rẻ, bên bán muốn bán với giá đắt và có thể che giấu những vấn đề hay rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bởi vậy trong một thương vụ M&A, vai trò kiểm toán viên cũng rất quan trọng để thẩm định và đưa ra kết luận về giá trị thực tế doanh nghiệp (cả hữu hình và vô hình) và giúp cho hai bên tiến lại gần nhau để đi đến thống nhất (ngoại trừ một số thương vụ M&A theo quy định của pháp luật chứng khoán).

Thứ ba, doanh nghiệp bị mua, bị sáp nhập là một thực thể pháp lý “sống” với đầy đủ các nhân tố riêng như chế độ quản trị, nguồn nhân lực, văn hoá doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh, bạn hàng…. Các doanh nghiệp trong mỗi thương vụ M&A đều có những nét khác biệt đặc biệt về yêu cầu, lợi ích, sự ràng buộc bởi vậy không thể có hợp đồng mẫu nào chung cho tất cả các giao dịch M&A. Ngoài việc các bên phải quy định đầy đủ các điều khoản cơ bản liên quan đến giao dịch M&A thì cần lưu ý đưa vào hợp đồng đầy đủ các đặc điểm yêu cầu, lợi ích, sự ràng buộc riêng biệt của doanh nghiệp. Nếu hợp đồng M&A chỉ dừng lại ở các nội dung cơ bản, không bao quát hết sẽ dẫn đến những mâu thuẫn nội tại ngay bên trong khi quá trình M&A kết thúc. Điều đó rất bất lợi cho doanh nghiệp mua, sáp nhập sau này. Ngoài ra, các bên cần lưu tâm đến vấn đề “hậu” M&A, bởi vì không giống như việc mua bán hàng hoá thông dụng khác, doanh nghiệp bị sáp nhập, bị mua sẽ chuyển giao toàn bộ các giá trị, các hoạt động vào doanh nghiệp mua, sáp nhập.

Những thương vụ M&A thành công gần đây chủ yếu do các nhà đầu tư và doanh nghiệp chủ động tiến hành với sự trợ giúp của các văn phòng Luật sư của LVN Group nhiều hơn là của các tổ chức dịch vụ tư vấn hay dịch vụ tài chính trung gian.

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)

3. Hoạt động mua bán công ty, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam ?

Bất chấp những khó khăn kinh tế vĩ mô, Việt Nam vẫn là một thị trường mua lại, sáp nhập hấp dẫn. Theo báo cáo mới nhất của công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers (PwC) công bố ngày 29/7, trong 6 tháng đầu năm 2008 đã có 48 thương vụ mua lại, sáp nhập (M&A) được thực hiện tại Việt Nam với tổng giá trị là 347 triệu USD.

Theo PwC, một số thương vụ M&A điển hình trong 6 tháng đầu năm 2008 có thể kể đến là: Swiss Re mua lại 25% cổ phần tại Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (tháng 1/2008) với trị giá 81,9 triệu USD; Kamaz Inc – tập đoàn sản xuất ôtô của Nga – mua 12,5% cổ phần của Công ty VMIC ở Cẩm Phả Quảng Ninh (tháng 2/2008) và dự kiến sẽ tăng lên 36%; Morgan Stanley mua lại 48,33% cổ phần của Công ty Chứng khoán Hướng Việt…

Một thương vụ đáng chú ý khác trong tháng 2/2008 là Franklin Resources Inc mua lại 49% cổ phần của Công ty Quản lý quỹ Vietcombank. Ngân hàng Berhard, – một trong những ngân hàng lớn nhất của Malaysia – mua 15% cổ phần của Ngân hàng An Bình (tháng 3/2008); tiếp đó là Carlsberg trở thành đối tác chiến lược của Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội với 16% cổ phần vào tháng 5/2008…

Sôi động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam

Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

So sánh với 6 tháng đầu năm 2007 thì giá trị các thương vụ M&A tại Việt Nam năm nay tuy thấp hơn, nhưng số lượng lại nhiều hơn 1 thương vụ (6 tháng đầu năm 2007, có 47 thương vụ M&A tại Việt Nam với tổng giá trị là 736 triệu USD).

Mặc dù giá trị các thương vụ thấp hơn năm trước, nhưng các chuyên gia của PwC cho rằng còn quá sớm để kết luận rằng hoạt động M&A có suy giảm hay không.

“Một mặt, chúng tôi nhận thấy các công ty hoãn lại việc chốt các thương vụ là do tình hình kinh tế không ổn định hoặc còn phải thương lượng lại về mặt giá cả, mặt khác một số công ty trong nước và nước ngoài nhận được sự đánh giá thấp hơn trong năm 2008 và các nhà đầu tư nước ngoài cần phải đảm trách quá trình mua bán nghiêm ngặt này khi có nhiều công ty Việt Nam chào bán. Một hoặc hai thương vụ có qui mô trung bình lớn hơn cũng có thể tác động lớn đến số liệu”, đại diện của PwC nói.

Báo cáo của PwC về M&A được thực hiện 2 lần 1 năm và theo số liệu 6 tháng cuối năm 2007, tổng giá trị thương vụ M&A là 1.132 triệu USD (gần gấp đôi số 6 tháng cuối năm), do đó các chuyên gia PwC dự báo hoạt động M&A sẽ tiếp tục tăng trong 6 tháng cuối năm 2008.

PwC cho biết các thương vụ M&A trong lĩnh vực tài chính sẽ tăng trong những tháng tới vì sự thâm nhập của dich vụ ngân hàng hiện đại tại Việt Nam hiện nay còn thấp và một số tổ chức tài chính nhỏ có thể gặp khó khăn với khả năng tín dụng hiện tại, do đó có thể cân vốn từ các đối tác chiến lược nước ngoài. Về mặt ngắn hạn, PwC cho rằng M&A tại các công ty chứng khoán sẽ trở nên phổ biến.

Các công ty này chịu ảnh hưởng do thị trường chứng khoán giảm sút, trong khi đó, sự giảm lòng tin thể hiện trong các phiên giao dịch gần đây cũng gây khó khăn cho việc duy trì mức lợi nhuận như năm 2007.

Với những áp lực đó, lĩnh vực chứng khoán đang phải đối mặt với hiện tại và sự thật là ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty thành lập công ty chứng khoán như là một công ty con không thuộc lĩnh vực kinh doanh chính và vốn nhỏ, do đó rất dễ hiểu khi một số công ty phải tính đến chuyện giải thể hoặc bán lại cho đối thủ hoặc nhà đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất muốn tham gia một số lĩnh vực như lĩnh vực viễn thông khi tiến hành cổ phần hóa hay lĩnh vực bán lẻ và phân phối khi thị trường mở cửa vào năm 2009.

Một lĩnh vực khác cũng thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài là lĩnh vực vật liệu xây dựng. PwC tin tưởng rằng với việc thực hiện những cam kết WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục là điểm đến hấp dẫn cho hoạt động M&A trong năm 2008 và những năm tiếp theo.

Thêm vào đó, việc nới lỏng các qui định liên quan đến người nước ngoài làm việc tại Việt Nam cũng là một lý do quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động M&A tại Việt Nam

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)

4. Có được mua bán, sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần không ?

Nhằm đối phó với nguy cơ khủng hoảng tài chính toàn cầu khi thị trường tài chính thế giới đang diễn biến xấu nghiêm trọng do khủng hoảng nợ từ khu vực đồng euro cộng thêm chỉ số tín dụng Mỹ rớt hạng, ngày 4/8/2011, Ngân hàng trung ương châu Âu đã tuyên bố sẽ mua lại nợ của các nước châu Âu

Từ 2008 đến nay, việc hàng loạt ngân hàng hàng đầu của Mỹ bị phá sản đã làm cho nền kinh tế thế giới bị ảnh hưởng trầm trọng. Nhằm đối phó với nguy cơ khủng hoảng tài chính toàn cầu khi thị trường tài chính thế giới đang diễn biến xấu nghiêm trọng do khủng hoảng nợ từ khu vực đồng euro cộng thêm chỉ số tín dụng Mỹ rớt hạng, ngày 4/8/2011, Ngân hàng trung ương châu Âu đã tuyên bố sẽ mua lại nợ của các nước châu Âu. Tuy nhiên, tuyên bố này chưa thể dập tắt đám cháy khủng hoảng và khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư. Lãi suất cho vay vẫn tăng liên tục ở Tây Ban Nha đến 6,3%, Ý là 6,2% dù lãi suất chính thức là 2,2%. Sau Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha, nhiều nhà đầu tư lo ngại nguy cơ vỡ nợ từ Ý và Tây Ban Nha sẽ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền khủng hoảng; Trong khi đó, Nhật Bản và Trung Quốc đã phát đi thông điệp kêu gọi hợp tác quốc tế để ngăn chặn khủng hoảng toàn cầu.

Trong bối cảnh quốc tế như trên, việc bắt buộc tuân thủ các lộ trình mở của ngành ngân hàng, áp dụng các chuẩn mực quốc tế, tạo nên một môi trường cạnh tranh đầy đủ và thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất và mua bán ngân hàng thương mại là yêu cầu cấp thiết của hệ thống ngân hàng Việt nam.

Trong thời gian vừa qua, việc sáp nhập hợp nhất (SN-HN) ngân hàng tại Việt Nam chủ yếu là thực hiện lộ trình tăng vốn điều lệ tối thiểu theo quy định tại Nghị định 141/2016/NĐ_CP, thể hiện trên một số mặt sau:

– Các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) bị sáp nhập hợp nhất trở thành chi nhánh của ngân hàng TMCP được sáp nhập. Điển hình như ngân hàng TMCP Đại Nam sáp nhập vào ngân hàng TMCP Phương Nam, ngân hàng TMCP Quảng Ninh sáp nhập vào ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, ngân hàng TMCP Đông Á mua lại ngân hàng TMCP Tứ giác Long Xuyên.

Hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua bán ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay

Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

– Quy mô vốn điều lệ của ngân hàng TMCP được sáp nhập, hợp nhất tăng lên bằng vốn điều lệ của hai ngân hàng trước; Bộ máy nhân sự Hội đồng quản trị, Ban điều hành được củng cố kiện toàn và tăng cường nhằm đảm nhận vai trò và sứ mệnh mới với quy mô hoạt động mới.

Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng TMCP hiện nay

Thứ nhất, số lượng lớn so với quy mô của nền kinh tế, vốn điều lệ bình quân thấp. Hiện tại cả nước có 84 ngân hàng thương mại, trong đó 36 ngân hàng TMCP có số vốn điều lệ bình quân rất thấp, vốn điều lệ của ngân hàng nhỏ nhất là 50 triệu USD và lớn nhất chưa đến 1 tỷ USD. Theo nghị định số 141 của Chính phủ vốn, pháp định đến năm 2010 của mỗi NHTM phải đạt tối thiểu 3.000 tỷ đồng. Nhưng đến nay 9 ngân hàng TMCP nhỏ chưa đủ vốn pháp định;
Thứ hai, phương thức giao dịch chậm được cải tiến, các hình thức dịch vụ thanh toán qua ngân hàng chưa đa dạng, thủ tục cho vay còn rườm rà, nhiêu khê, ngân hàng chưa chủ động tìm khách hàng, chỉ dựa vào lãi suất cho vay là chính mà chưa chú trọng đến viêc tạo tiện ích, cung cấp thông tin hoặc tư vấn miễn phí cho khách hàng;
Thứ ba, chất lượng tín dụng giảm, nợ quá hạn tăng, thu hồi nợ quá hạn chậm. Hiện nay nợ xấu trong hệ thống ngân hàng VN đang tăng cao trong khoảng 3-7% là một thực tế đáng lo ngại;
Thứ tư, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mức. Chưa bổ nhiệm người đúng tiêu chuẩn; chưa đào tạo cán bộ kiểm soát có trình độ tương xứng với nhiệm vụ, chức trách, chưa mạnh dạn đấu tranh với những việc làm sai của Hội đồng quản trị, Ban điều hành; Đội ngũ lãnh đạo còn hạn chế về trình độ tổ chức, công tác chuyên môn, thậm chí còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lũng đoạn, tư lợi cho cá nhân, gia đình, bạn bè mình.

Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu

Một là, nguyên nhân từ môi trường vĩ mô:
• Hệ thống luật pháp trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng còn thiếu những quy định quan trọng tạo điều kiện cho ngành ngân hàng phát triển phù hợp với các chuẩn mực quốc tế như: các dịch vụ ngân hàng điện tử, minh bạch thông tin, phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng qua biên giới… Các văn bản pháp luật liên quan đến việc xử lý thu hồi vốn do nợ quá hạn trong hoạt động ngân hàng còn nhiều bất cập, chồng chéo. Thiếu công cụ cưỡng chế hữu hiệu để đảm bảo quyền lợi của ngân hàng…;
• Tình trạng sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế còn rất cao, hạn chế khả năng kiểm soát hoạt động của các công ty khi cho vay; Đồng thời làm tăng các chi phí in ấn, vận chuyển trong lưu thông, bảo quản và an ninh xã hội;
• Chưa có những quy định chặt chẽ và các yêu cầu bắt buộc về minh bạch thông tin trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Những số liệu về nợ xấu, tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng chưa được kiểm tra một cách chặt chẽ;
• Sự điều hành của Nhà nước không kịp thời đối với các thị trường có liên quan đến ngân hàng như thị trường chứng khoán; thị trường vàng, thị trường bất động sản gây ra các tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.

Hai là, nguyên nhân từ phía các Ngân hàng thương mại cổ phần:
• Sự thành lập ồ ạt các ngân hàng TMCP làm chia cắt thị phần chung của hệ thống ngân hàng. Điều này đi ngược lại với xu thế chung là cần xây dựng những ngân hàng trong nước có quy mô lớn và sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
• Tâm lý ngại sáp nhập, hợp nhất, ý thức cá nhân của các chủ ngân hàng còn quá lớn, họ muốn làm chủ một ngân hàng nhỏ nhưng của riêng mình hơn là phải sáp nhập, hợp nhất với một ngân hàng khác;
• Nhiều ngân hàng thương mại vẫn có tâm lý ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước, thiếu năng động trong hoạt động kinh doanh, thiếu chuẩn bị về nhân lực làm hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới, thị phần; cơ cấu dịch vụ vẫn nặng về tín dụng; khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng còn thấp.

Một số giải pháp cấp thiết cho hoạt động sáp nhập hợp nhất và mua bán ngân hàng TMCP

Nhóm giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước

– Tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng TMCP trên cơ sở hình thành những ngân hàng đủ mạnh về tiềm lực tài chính; Xác định việc SN-HN là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng và phục vụ nền kinh tế một cách tốt nhất trong xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu;
– Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý, sửa đổi theo hướng phù hợp với các cam kết tự do hóa tài chính mà Việt Nam đã tham gia ký kết song phương và đa phương trong lộ trình hội nhập kinh tế: Xây dựng các quy phạm pháp luật liên quan đến mua bán, sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng TMCP: xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi và tiền vay ngân hàng trên phương diện được xem như “bà đỡ” cho những ngân hàng yếu kém hoặc có xảy ra rủi ro nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền;
– Phổ biến kiến thức pháp luật ngân hàng và tiến trình hội nhập tài chính:
Xây dựng lộ trình hội nhập cho những cam kết quốc tế đã thực hiện và dự kiến thực hiện. Phổ biến tiến trình đó đến các ngân hàng TMCP để thấy được những bước đi cụ thể mà Việt Nam phải thực hiện; đánh giá diễn biến, xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng trên thế giới, trên cở sở đó xây dựng chiến lược tổng thể về cạnh tranh và phát triển cho ngành ngân hàng Việt Nam, chỉ ra những vận hội và thách thức cảnh báo những nguy cơ mà các NHTMCP trong nước cần quan tâm;
– Minh bạch và công khai thông tin tài chính:
Xây dựng và ban hành các quy định và chế tài thích hợp yêu cầu các ngân hàng TMCP công bố tài chính một cách trung thực, đầy đủ, chính xác và kịp thời theo các chuẩn mực quốc tế, giảm thiểu sự lệch lạc thông tin về các ngân hàng TMCP.
– Tăng cường, xây dựng các định chế thanh tra giám sát của Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng TMCP: Đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát; Hoàn thiện các công cụ thanh tra giám sát phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, nâng cao trình độ và đạo đức của người làm công tác thanh tra, có cơ chế giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm những cán bộ thanh tra gây phiền hà, sách nhiễu, có động cơ vụ lợi. Hoàn thiện và mở rộng xu hướng thiết lập quan hệ giám sát tài chính quốc tế; Tham gia hệ thống giám sát tài chính chung ASEAN;
– Ban hành các chính sách khuyến khích các ngân hàng chủ động hợp nhất, sáp nhập thông qua các công cụ như ưu đãi về thuế, hỗ trợ tái cơ cấu vốn thông qua thị trường liên ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đồng thời bổ sung những quy định trong Luật cạnh tranh để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng;
Nhóm giải pháp từ phía các ngân hàng TMCP
– Tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay: các ngân hàng thương mại cần sử dụng tối đa các khả năng liên kết phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình, trong đó có giải pháp hợp nhất, mua bán, sáp nhập;
– Tăng cường năng lực quản trị, điều hành, bộ máy kiểm soát từ hội sở đến lãnh đạo các chi nhánh, phòng giao dịch: tức là sắp xếp, đào tạo lại, đào tạo mới, sử dụng nguồn nhân lực một cách có hiệu quả, có chính sách đãi ngộ bổ nhiệm phù hợp và hình thành nên cơ chế tự giám sát hiệu quả, giúp nâng cao công tác quản trị hiện đại trong hoạt động ngân hàng;
– Phát triển nguồn nhân lực ngân hàng, phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế: Nếu công nghệ được xem là yếu tố tạo ra sự đột phá thì nguồn nhân lực được xem là yếu tố nền tảng, tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng; xây dựng vào đào tạo lực lượng cán bộ kế thừa với chiến lược phát triển của ngân hàng hiện đại;
– Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng gắn liền với phân khúc thị trường:
Việc đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nên gắn liền với việc chuyên môn hóa các dịch vụ mà khách hàng của mình sử dụng, tránh việc đầu tư dàn trải; xác định được dịch vụ cốt yếu và tập trung phát triển chất lượng các dịch vụ đó; Việc phát triển các sản phẩm hiện đại chỉ nên được thực hiện một cách từ từ và có chọn lọc. Đồng thời, mỗi ngân hàng phải thực hiện được phân khúc thị trường mục tiêu của mình, tránh việc chạy đua cạnh tranh khách hàng một cách thiếu định hướng để tập trung nguồn lực, tiết kiệm chi phí marketing và nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng của mình; rút bài học kinh nghiệm điển hình như ngân hàng Nhật Bản MUFG (Mitsubishi UFJ Financial Group).

– Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để phát triển các dịch vụ:

Việc đổi mới công nghệ nên tập trung vào dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin như hệ thống máy rút tiền tự động (ATM), Internet-banking, mobile-banking, quản lý hệ thống dữ liệu khách hàng; đẩy nhanh tốc độ phát triển của hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo tính an toàn và chính xác trong các giao dịch. Cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống. đảm bảo khả năng tiếp thu và quản lý kiểm soát được công nghệ, Đảm bảo tốt công tác an ninh mạng. Tạo và giữ được lòng tin của khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng.

– Áp dụng các thông lệ quốc tế về hoạt động kinh doanh ngân hàng:

Để có thể huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán nước ngoài, các ngân hàng TMCP phải áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế và từng bước thực hiện công khai minh bạch tài chính theo các quy định của thị trường tài chính quốc tế.

– Xây dựng thương hiệu:

Với một thương hiệu mạnh, ngân hàng có thể duy trì cũng như phát triển thị phần của mình một cách thuận lợi và vững chắc. Các ngân hàng TMCP cần nhận thức rằng việc xây dựng thương hiệu không phải chỉ qua các hình thức quảng cáo khuyến mãi mà chính là chất lượng dịch vụ, phong cách phục vụ và uy tín của ngân hàng để từ đó hình thành nên giá trị ngân hàng trong tâm trí khách hàng.

Những giải pháp đã nêu đòi hỏi phải được triển khai một cách đồng bộ và theo một lộ trình xác định. Điều cần thiết là tự thân các ngân hàng phải đánh giá đúng thực lực của mình, nhìn nhận một cách toàn diện các cơ hội và thách thức, hoạch định cho mình một chiến lược phát triển tương thích dựa trên các lợi thế so sánh, khả năng tiềm lực vốn có và tiềm ẩn để có khả năng cạnh tranh bình đẳng ở môi trường hội nhập kinh tế toàn cầu trong tương lai.

Như vậy, việc sáp nhập hợp nhất, mua bán ngân hàng TMCP là con đường tất yếu trong lộ trình phát triển ngân hàng Việt Nam hiện tại và tương lai.

Công ty luật LVN Group (biên tập)

5. Quy định pháp luật về sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam ?

Khái niệm về M&A (Mergers and Acquisitions) hiện đang được định nghĩa theo các tiêu chí khác nhau (trong các tài liệu như Mergers, Consolidation, Acquitions, Leverged Buyouts, Takeovers (friendly/hostile), Management Buyouts, Share-Due, Asset-Due…) nhưng đều có nội dung về quan hệ sáp nhập, hợp nhất hoặc thâu tóm giữa các doanh nghiệp với mong muốn tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao quy mô doanh nghiệp

Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhập và thâu tóm ngân hàng ở Việt Nam.

Luật sư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191

1. Khái quát chung về sáp nhập và thâu tóm doanh nghiệp (M&A)

1.1. Một số khía cạnh liên quan đến khái niệm M&A và M&A ngân hàng

Khái niệm về M&A (Mergers and Acquisitions) hiện đang được định nghĩa theo các tiêu chí khác nhau (trong các tài liệu như Mergers, Consolidation, Acquitions, Leverged Buyouts, Takeovers (friendly/hostile), Management Buyouts, Share-Due, Asset-Due…) nhưng đều có nội dung về quan hệ sáp nhập, hợp nhất hoặc thâu tóm giữa các doanh nghiệp với mong muốn tìm kiếm, mở rộng thị trường, nâng cao quy mô doanh nghiệp; mặt khác nó cũng góp phần “làm sạch” thị trường đối với những doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, hoặc những doanh nghiệp cần phải được đầu tư về vốn/quản trị/công nghệ… từ các doanh nghiệp khác. Hơn nữa, cũng như quy luật của sự phát triển, các doanh nghiệp không chỉ chọn giải pháp phát triển “tự sinh” thông qua việc tự thành lập các doanh nghiệp trực thuộc mà còn thông qua các biện pháp phát triển “ngoại sinh” với việc sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp khác. Có thể tóm lược cấu trúc của các giao dịch M&A qua một sơ đồ cơ bản sau: (Hình 1)

Trên thực tế, còn có cách phân chia M&A theo các tiêu chí khác nhau, như: (i) dựa vào pháp luật về cạnh tranh, tập trung kinh tế để độc chiếm thị trường với một tỷ lệ độc chiếm thị trường liên quan hợp pháp theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, tập trung kinh tế. Trong tiêu chí này có: (a) hợp nhất/sáp nhập theo chiều ngang (Horizontal Mergers), theo đó, giữa hai doanh nghiệp kinh doanh cùng cạnh tranh trực tiếp, chia sẻ cùng dòng sản phẩm, cùng thị trường hợp nhất/sáp nhập với nhau. Kết quả từ việc M&A theo hình thức này sẽ mang lại cho bên hợp nhất/bên sáp nhập cơ hội mở rộng thị trường, tăng hiệu quả trong việc kết hợp thương hiệu, giảm chi phí cố định, tăng cường hiệu quả hệ thống phân phối; (b) hợp nhất/sáp nhập theo chiều dọc (Vertical Mergers), theo đó, giữa hai doanh nghiệp nằm trên cùng một chuỗi giá trị, dẫn tới sự mở rộng về phía trước hoặc phía sau của doanh nghiệp hợp nhất trên một chuỗi giá trị đó. Hình thức hợp nhất này được chia thành hai nhóm nhỏ: hợp nhất tiến (forward), trường hợp này xảy ra khi một doanh nghiệp mua lại doanh nghiệp khách hàng của mình, ví dụ doanh nghiệp may mặc mua lại chuỗi cửa hàng bán lẻ quần áo; hợp nhất lùi (backward), trường hợp này xảy ra khi một doanh nghiệp mua lại nhà cung cấp của mình, ví dụ như doanh nghiệp sản xuất sữa mua lại doanh nghiệp bao bì, đóng chai hoặc doanh nghiệp chăn nuôi bò sữa… Hợp nhất theo chiều dọc đem lại cho doanh nghiệp tiến hành hợp nhất các lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng nguồn hàng hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh…; hoặc (c) hợp nhất/sáp nhập tổ hợp (Conglomerate Mergers) với sự kết hợp cả hai hình thức trên. (ii) dựa vào phương thức giao dịch có thể chia thành (a) góp vốn, mua cổ phần với tỷ lệ nhất định (chi phối /không chi phối) hoặc (b) sáp nhập, hợp nhất 100%….

Cũng như các giao dịch M&A, M&A ngân hàng là phương thức hữu hiệu và là giải pháp tốt để cải tạo và tái cấu trúc hệ thống. Mặc dù là ngành tương đối đặc thù với nhiều yêu cầu khắt khe cho toàn hệ thống, nhất là đối với công tác quản trị rủi ro, kiểm soát các chỉ số an toàn, bảo đảm an ninh tiền tệ và nền kinh tế đất nước, nhưng với những lợi ích nhiều mặt của M&A mang lại như (i) tập trung nguồn lực, mở rộng và phát triển mạng lưới nhanh chóng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng, (ii) cải thiện công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng cường cạnh tranh, giảm chi phí hoạt động, (iii) đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước; (iv) đồng thời loại bỏ và làm sạch thị trường những ngân hàng yếu kém, hoạt động không có hiệu quả… (v) mặt khác, M&A còn là phương thức thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp hiệu quả, thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu ngân hàng phát triển… thì M&A ngân hàng cần được được nghiên cứu đầy đủ và áp dụng một cách phù hợp với nền kinh tế và các điều kiện của Việt Nam. Có như vậy, chúng ta vừa đáp ứng được mục tiêu bảo đảm an toàn hệ thống mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi của các nhà đầu tư, của chính sự vận động của thị trường.

1.2. Thực trạng và xu hướng M&A ngân hàng tại Việt Nam

Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính của thế giới đã ảnh hưởng, tác động xấu đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có các định chế tài chính, ngân hàng tưởng như không thể bị ảnh hưởng như UniCredit, AIG, Merrill Lynch, Citi Group, JP Morgan Chase… Và tất yếu theo quy luật thị trường, hàng loạt các vụ mua bán, sáp nhập các công ty tài chính, ngân hàng, nhất là ở Mỹ – nơi đã có hơn 40 ngân hàng bị phá sản và hàng chục ngân hàng tự nguyện hoặc bị mua bán và sáp nhập trong năm 2008 vừa qua1. Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cũng đã gặp những thách thức, không những phải đối mặt với những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại: lạm phát tăng cao, thâm hụt cán cân thương mại cũng đạt mức kỷ lục (hơn 14% GDP), thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm… đã làm cho nền kinh tế nói chung, trong đó có “hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn 20 năm đổi mới”2. Trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM), nhiều ngân hàng đã gặp khó khăn trong kinh doanh, nhất là các ngân hàng nhỏ do phải cạnh tranh với các ngân hàng trong và ngoài nước và phải đối mặt với việc thay đổi chính sách lãi suất, tỷ giá của Nhà nước để kiềm chế lạm phát, khủng hoảng tài chính toàn cầu3… Ngoài ra, một yêu cầu về tài chính đặt ra cho các ngân hàng là phải đạt được kế hoạch tăng vốn điều lệ tối thiểu theo lộ trình được quy định tại Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về Danh mục vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, theo đó, đến ngày 31/12/2008, vốn điều lệ tối thiểu của các NHTM cổ phần phải là 1.000 tỉ đồng, ngày 31/12/2010 phải là 3.000 tỷ đồng. Đối với các ngân hàng đã có bề dày hoạt động, vốn lớn thì điều này không gặp khó khăn, nhưng đối với một số ngân hàng nhỏ thì đây thực sự là những khó khăn, nhất là trong giai đoạn thị trường chứng khoán kém hấp dẫn, các đợt IPO, phát hành bổ sung, tăng vốn… không thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư như cách đây hai năm.

Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng Việt Nam (NHVN), các giải pháp đưa ra là phải (i) kêu gọi các nhà đầu tư, nhà đầu tư chiến lược (trong và ngoài nước) tiếp tục đầu tư, góp vốn, mua cổ phần tại các NHTM để trở thành các cổ đông chiến lược của các ngân hàng, qua đó tăng thêm sức mạnh về vốn, hỗ trợ nghiệp vụ, kinh nghiệm quản trị, quản lý… cho các ngân hàng (ii) cho phép mua lại, hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng nói chung, nhất là các ngân hàng nhỏ để tạo sức cạnh tranh, gia tăng thị phần, qua đó có thể hình thành các ngân hàng lớn, thậm chí là các tập đoàn tài chính – ngân hàng Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực (các hoạt động này gọi chung là M&A trong lĩnh vực ngân hàng). Trong thời gian vừa qua, nhất là trong những tháng cuối năm 2008, vấn đề M&A ngân hàng đã được nhiều báo chí đề cập4, các Bản nghiên cứu theo đơn đặt hàng của Nhà nước cũng đã đưa ra đề xuất sáp nhập các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng hoạt động yếu kém. Nhà nước phải có giải pháp “xây dựng kế hoạch và cơ sở pháp lý cho hoạt động mua lại và sáp nhập giữa các ngân hàng (bao gồm cả ngân hàng nước ngoài)”5. Vì vậy, M&A ngân hàng là một trong những yêu cầu, đồng thời là một quy luật kinh tế tất yếu được đặt ra, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế thế giới và trong nước đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay.

2. Khung pháp lý liên quan đến việc M&A ngân hàng ở Việt Nam

2.1. Đối với pháp luật chuyên ngành

2.1.1. Đối với hoạt động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược

Đối với nhà đầu tư chiến lược trong nước, Nhà nước cũng đã ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần cho nhà đầu tư trong nước đầu tư vào thị trường Việt Nam nói chung, thị trường ngân hàng nói riêng như Luật Doanh nghiệp , Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Quy chế cấp giấy phép thành lập ngân hàng. Các quy định tại Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 04/9/2001, Quyết định số 797/2002/QĐ-NHNN ngày 29/7/2002 và Quyết định số 20/2008/QĐ-NHNN ngày 04/7/2008 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1122 về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTM trước đây đã có hướng dẫn cụ thể chung cho hoạt động mua cổ phần tại các ngân hàng, theo đó các tổ chức, cá nhân trong nước phải tuân thủ các quy định về điều kiện, tỷ lệ, trình tự, thủ tục tăng vốn điều lệ của ngân hàng. Các tổ chức, trong đó có tổ chức tín dụng phải tuân thủ các điều kiện về chế độ tài chính, kế toán, báo cáo tài chính năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập thuộc danh sách các tổ chức kiểm toán đã được Bộ Tài chính công bố đủ tiêu chuẩn kiểm toán doanh nghiệp. Ý kiến kiểm toán đối với các báo cáo tài chính phải thể hiện sự chấp nhận toàn bộ. Trường hợp ý kiến kiểm toán là chấp nhận có ngoại trừ thì khoản ngoại trừ phải là không trọng yếu và phải có tài liệu giải thích hợp lý về cơ sở cho việc ngoại trừ đó… Hiện nay, có nhiều tổ chức kinh tế, tập đoàn lớn, trong đó có các định chế tài chính lớn như Vietcombank, BIDV, Viettel,… cũng đã góp vốn, đầu tư để trở thành cổ đông chiến lược của một số ngân hàng nhỏ. Mặc dù đã có hành lang pháp lý nhưng hoạt động M&A dưới hình thức này vẫn cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động được thuận lợi hơn. Ngoài ra, để phù hợp với những yêu cầu mới của Ngành ngân hàng và đòi hỏi của hội nhập, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Thương mại, trong đó có các quy định mới về vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần. Để chi tiết hoá các quy định này, ngày 26/02/2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 06/2010/TT-NHNN hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định này, theo đó tại Chương III đã quy định chi tiết về mua bán, chuyển nhượng cổ phần, mua lại phần vốn góp của thành viên góp vốn. Ngoài các quy định trên, việc góp vốn, mua cổ phần trước đây còn được điều chỉnh bởi các quy định về các giới hạn về đầu tư, góp vốn của NHTM vào các NHTM và Tổ chức tín dụng khác được thể hiện trong Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN của NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN, Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (Quyết định số 457). Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, việc đảm bảo các tỷ lệ này, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn thay thế cho Quyết định số 457 quy định cụ thể:

– Mức vốn góp, mua cổ phần của Ngân hàng Thương mại trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác (Doanh nghiệp góp vốn, mua cổ phần) không được vượt quá 11% Vốn Điều lệ của Doanh nghiệp góp vốn, mua cổ phần

– Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Doanh nghiệp góp vốn, mua cổ phần không được vượt quá 11% Vốn Điều lệ của Doanh nghiệp góp vốn, mua cổ phần

– Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng Thương mại: (i) tại tất cả các công ty trực thuộc tối đa không quá 25% Vốn Điều lệ và Quỹ dự trữ của Ngân hàng và (ii) trong tất cả các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, Ngân hàng Thương mại khác và góp vốn, mua cổ phần của Công ty trực thuộc không được vượt quá 40% Vốn Điều lệ và Quỹ Dự trữ của Ngân hàng, trong đó tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng vào các Công ty trực thuộc không được vượt quá 25%.

Đối với nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, theo cam kết Việt Nam gia nhập WTO, thì việc các tổ chức nước ngoài được phép góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nói chung, NHTM của Việt Nam nói riêng cũng được quy định khá cụ thể, theo đó các cam kết về dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác được thực hiện phù hợp với các luật lệ và các quy định liên quan được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam để đảm bảo sự phù hợp với Điều VI của GATS và Đoạn 2 (a) của Phụ lục về các Dịch vụ tài chính. Do đó, để có một hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể về vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/4/2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM Việt Nam và để cụ thể hơn, NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2007/TT-NHNN ngày 29/11/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 69/2007/NĐ-CP, theo đó, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ NHVN trong phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của NHVN. Theo các quy định này thì tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cổ đông nước ngoài hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHVN. Đồng thời với mỗi loại hình nhà đầu tư khác nhau thì được quyền sở hữu tỷ lệ cổ phần khác nhau và điều kiện cho mỗi nhà đầu tư cũng là khác nhau. Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó không vượt quá 5% vốn điều lệ của một NHVN. Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan của tổ chức tín dụng nước ngoài đó không vượt quá 10% vốn điều lệ của một NHVN. Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đó không vượt quá 15% vốn điều lệ, trường hợp vượt quá 15% thì phải xin phép Thủ tướng Chính phủ nhưng tối đa không quá 20% vốn điều lệ của NHVN.

Và do đó, trong thời gian vừa qua, đã có hàng loạt định chế tài chính lớn của nước ngoài như HSBC, ANZ, Sumitomo Mitsui Banking, VOF Investment Limited Bristish Virgin Island, IFC, Mirae Asset, Deutsche Bank AG, OCBC, Maybank, BNP Paribas… đã đầu tư, mua cổ phần để trở thành các cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHVN.

2.1.2. Đối với hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất ngân hàng

Tại Việt Nam, vấn đề M&A không phải là mới, 10 năm về trước, NHNN đã có hẳn một Quy chế về sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng cổ phần ban hành kèm theo Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 của Thống đốc NHNN làm tiền đề pháp lý quan trọng cho những cuộc M&A ngân hàng diễn ra vào các năm 1997, 1998, 1999, 2001, 2003 với việc nhiều NHTM cổ phần nông thôn với quy mô vốn nhỏ đã được M&A như NHTM cổ phần Phương Nam đã M&A hàng loạt các NHTM khác như NHTM cổ phần nông thôn Đồng Tháp, Châu Phú, Đại Nam, Cái Sắn; NHTM cổ phần Đông Á M&A NHTM cổ phần tứ giác Long Xuyên; Sacombank M&A Ngân hàng Thạnh Thắng; NHTM cổ phần Phương Đông M&A với Ngân hàng nông thôn Tây Đô… Từ năm 2005 trở lại đây, hoạt động mua lại, hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng trong nước đã ít đi, tuy nhiên với tư cách là một hình thức M&A, hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư trong và ngoài nước để trở thành cổ đông chiến lược đã diễn ra mạnh mẽ, nhất là sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO với hàng loạt các cam kết về mở rộng thị trường tài chính, ngân hàng.

Vừa qua, NHNN Việt Nam cũng đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN hướng dẫn việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại các tổ chức tín dụng để thay thế cho Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 (Thông tư số 04). Thông tư số 04 đã: (i) kế thừa và loại bỏ những hạn chế của Quy chế về sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng cổ phần Việt Nam được ban hành theo Quyết định số 241/1998/QĐ-NHNN5 ngày 15/07/1998 của Ngân hàng Nhà nước, theo đó phạm vi các đối tượng được/thuộc diện sáp nhập, hợp nhât được mở rộng. (ii) kế thừa tinh thần của Luật Doanh nghiệp về hợp nhất, sáp nhập, Luật Cạnh tranh 2004 về tập trung kinh tế, đồng thời đảm bảo tuân thủ các cam kết của Việt Nam đối với WTO trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng, cụ thể:

Về hình thức M&A: Thông tư số 04 quy định các Ngân hàng thương mại chỉ được tiến hành M&A theo một số hình thức nhất định như: (i) Ngân hàng được M&A với các tổ chức tín dụng khác; (ii) Một Ngân hàng được M&A với một Ngân hàng, công ty tài chính, tổ chức tín dụng hợp tác để thành một Ngân hàng; (iii) Một Ngân hàng được mua lại một Công ty tài chính, một Công ty cho thuê tài chính.

Về điều kiện để tiến hành M&A: Thông tư số 04 quy định việc M&A không được thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng tham gia các hoạt động này phải phối hợp xây dựng một đề án thực hiện hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại không trái với nội dung của hợp đồng đã ký. Ngoài ra, tổ chức tín dụng còn lại sau khi tiến hành hợp nhất, sáp nhập, hoặc mua lại phải đảm bảo đáp ứng điều kiện về vốn pháp định theo quy định của pháp luật.

2.2. Đối với pháp luật có liên quan, điều chỉnh hoạt động M&A doanh nghiệp nói chung, ngân hàng nói riêng

Ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành trong quá trình M&A ngân hàng, các bên trong quan hệ M&A phải tuân thủ các quy định của pháp luật khác như pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư, pháp luật về cạnh tranh… Pháp luật về cạnh tranh quy định khi sáp nhập, hợp nhất dẫn đến tập trung kinh tế dẫn đến một ngân hàng có mức “tập trung kinh tế” lớn hơn 50% thị trường liên quan. Pháp luật về chứng khoán cũng điều chỉnh hoạt động phát hành ra công chúng của tổ chức tín dụng, cụ thể tại Thông tư số 07/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính xác định cụ thể nghĩa vụ xin phép phát hành của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, pháp luật chứng khoán còn điều chỉnh các tỷ lệ sở hữu của ngân hàng nước ngoài, tổ chức nước ngoài đối với cổ phần tại các ngân hàng niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Pháp luật về tài chính điều tiết việc xây dựng Phương án chuyển giao tài sản, tài chính, thuế khi các ngân hàng M&A. Pháp luật về dân sự, thương mại liên quan đến các quy định điều chỉnh hợp đồng M&A. Pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với việc chuyển nhượng, mua lại nhãn hiệu, thương hiệu của ngân hàng; pháp luật về lao động đối với việc xây dựng phương án sử dụng lao động khi sáp nhập, hợp nhất ngân hàng… Bên cạnh hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam, hoạt động M&A ngân hàng phải tuân theo các thoả thuận, hiệp ước song phương và đa phương như các cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, các quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, các Hiệp định ASEAN…

3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện khung pháp lý về M&A ngân hàng tại Việt Nam

Xây dựng tập trung và có hệ thống đối với quy định của pháp luật về M&A ngân hàng với (i) hoạt động mua lại, sáp nhập và hợp nhất và (ii) đầu tư mua cổ phần để trở thành cổ đông chiến lược trong Luật Các tổ chức tín dụng với tư cách là đạo luật điều chỉnh chuyên ngành, theo đó cần có các định nghĩa, khái niệm, hình thức, điều kiện, quy trình và hợp đồng M&A ngân hàng cụ thể. Đồng thời, với tư cách là một hình thức tập trung kinh tế bị điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật cạnh tranh, các quy định về M&A ngân hàng cần phải phù hợp, đáp ứng các điều kiện về kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh, về thị phần, thị trường liên quan… để tránh việc độc quyền, hạn chế cạnh tranh lành mạnh trên thị trường ngân hàng. Hiện nay, các đạo luật về đầu tư, các cam kết của Việt Nam về đầu tư cũng đã xác nhận M&A là một hình thức đầu tư, tuy nhiên quy định này mới chỉ xác định nó với tư cách là một hình thức đầu tư trực tiếp (FDI) và còn rất sơ sài về yêu cầu, điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư này trong lĩnh vực ngân hàng, trong khi đó Luật Chứng khoán coi hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư đối với các ngân hàng trên thị trường chứng khoán là một hình thức đầu tư gián tiếp (FII)… Ngoài ra, các vấn đề pháp lý khác cũng rất đáng được quan tâm như định giá tài sản, thương hiệu, thuế, giải quyết lao động sau M&A… cũng cần phải được làm rõ trong quá trình hoàn thiện các chính sách, cơ chế cho hoạt động M&A ngân hàng.

Hình thành các công ty tư vấn M&A và các chuyên gia tư vấn M&A của Việt Nam một cách chuyên nghiệp, đó là những nhà cung cấp các dịch vụ M&A từ A tới Z với các khâu (i) dự báo, tìm kiếm, thăm dò đối tác, (ii) thẩm định đầy đủ các nội dung về pháp lý/tài chính (Legal/Financial Due Diligence); (iii) thiết lập hợp đồng M&A trong từng trường hợp, từng yêu cầu cụ thể; (iv) các thủ tục với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau M&A; (v) các vấn đề cần giải quyết sau M&A. Và để cung cấp các dịch vụ M&A, nhất là M&A ngân hàng đòi hỏi các công ty tư vấn, chuyên gia tư vấn M&A phải là những công ty, chuyên gia hàng đầu về tài chính, ngân hàng và pháp luật, có kinh nghiệm thực tế.

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)