Muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh, một yêu cầu đặt ra là các chủ thể kinh doanh phải có vốn, đây là cơ sở vật chất bảo đảm việc thực hiện các hoạt động kinh doanh được tiến hành, vốn có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến suốt quá trình tồn tại và phát triển của công ty. …
1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển công ty hợp danh
Một trong những loại hình tổ chức kinh doanh ra đời sớm nhất trong lịch sử là mô hình hợp danh (partnership). Loại hình doanh nghiệp này xuất hiện bởi nhu cầu của các nhà đầu tư, từ chỗ làm ăn đom lẻ, độc lập, các thưomg nhân tìm cách liên kết lại với nhau để thích ứng với những thử thách mới của nền sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, đồng thời là cơ hội tốt để tích tụ tư bản, nâng cao năng lực cạnh tranh và chia sẻ rủi ro. Theo tâm lý chung, những thương nhân sẽ ưu tiên tìm đến những người mà mình quen biết, tin cậy để cùng góp vốn làm ăn chung, hình thành nên liên kết đơn giản giữa những người thân quen với nhau. Chính vì vậy mà nguồn gốc hình thành của loại hình công ty này mang đậm nét cùa công ty đối nhân, các thành viên là những người thân cận, tin tưởng nhau, trọng về nhân thân của nhau hơn là vấn đề về vốn góp.
Đứng dưới góc độ lợi ích của các thành viên trong hợp danh thì hạn chế lớn nhất của hợp danh là chế độ trách nhiệm tài sản vô hạn của các chủ sở hữu, hành vi kinh doanh của từng thành viên có thể đem lại những nghĩa vụ tài sản liên đới và vô hạn cho các thành viên còn lại trong hợp danh. Vì vậy, để tồn tại cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong hợp danh, hợp danh chỉ thật sự phù hợp với quy mô kinh doanh vừa và nhỏ, ít cần đến sự biến động về chủ sở hữu. Đứng từ góc độ lợi ích của các nhà đầu tư thì đặc điểm này là một hạn chế, do đó, một số nước đã cấy ghép chế độ trách nhiệm hữu hạn vào mô hình hợp danh truyền thống nhằm bảo đảm tính thích nghi tốt hơn.
>> Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.0191
Trách nhiệm hữu hạn phát triển từ commenda ở các city-states Ý thời trung cổ (khoảng thế ki thứ X). Commenda là công cụ pháp lý được sử dụng chủ yếu trong hoạt động thương mại hàng hải, thông qua đó, những người góp vốn cung cấp tài chính cần thiết cho chủ tàu thực hiện hoạt động thương mại, hàng hải, đổi lại họ nhận được lợi nhuận và chịu trách nhiệm hữu hạn đối với mọi tổn thất. Dần dần hình thức này được sử dụng khắp châu Âu lục địa và với nhiều mục đích khác nhau*. Trên thế giới mô hình hợp danh tồn tại hai biến thể tiêu biểu nhất là loại hình hợp danh thông thường (general partnership) và hợp danh hữu hạn (limited partnership). Cũng cần lưu ý rằng, ở nhiều nước trên thê giới, mà tiêu biểu là các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì chủ thể kinh doanh gồm nhiều loại, bao gồm: thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole proprietorship), hợp danh (partnership) và công ty (company hay coporation), trong đó, hợp danh không phải là một loại hình công ty. Ở phương Đông, người phương Đông cũng không xa lạ với phường, hội, cuộc và đủ loại liên kết bán buôn, tuy nhiên mô hình hợp danh theo pháp luật Anh – Mỹ mới chỉ được du nhập trong một, hai thế kỷ trở lại đây .
Lịch sử phát triển kinh tế nước ta mang đặc trưng là kinh tế nông nghiệp chiếm giữ vị trí chủ đạo, hoạt động thương mại vốn không phải là thế mạnh. Thương mại Việt Nam chù yếu diễn ra ở các chợ được tổ chức sơ sài, quan hệ kinh doanh mang tính chất gia đình. Bởi vậy, các loại hình công ty ra đời muộn so với các nước trên thế giới, trong đó có công ty hợp danh.
Đến thế kỷ XIX, theo chân thực dân Pháp, người dân Việt Nam được làm quen với các mô hình công ty. Cùng với luật dân sự và thương mại, người Pháp đã mang luật công ty của họ vào Việt Nam như một sự cấy ghép pháp luật cưỡng bức trong điều kiện bóc lột và phân biệt đối xử hà khắc của kẻ xâm lược với người bị thống trị. Vì thế, chỉ một bộ phận rất nhỏ các nhà kinh doanh ở các đô thị lớn, mà chủ yếu là người nước ngoài, mới được biết đến luật công ty thời Pháp thuộc . Trong thời kỳ này, các bộ luật như Dân luật Bắc Kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ 1936 đã dịch các mô hình công ty của Pháp sang tiếng Vỉệt với tên gọi như “hội vốn”, “hội người”, “hội đồng lợi”… trong đó mô hình công ty hợp danh được gọi là “hội người”, gồm “hội hợp danh” và “hội hợp tư”. Tuy nhiên, với chính sách bóc lột nặng nề của thực dân Pháp cộng với việc độc quyền kinh doanh khiến cho người dân Việt Nam không được hưởng lợi từ những sản phẩm pháp luật du nhập từ phương Tây này . Chính vì vậy mà các cụm từ “hội hợp danh”, “hội hợp tư”… trở nên khá lạ tai đối với phần lớn người Việt Nam ngày nay.
Khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954, chủ trương cùa Nhà nước là thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận. Từ Hiến pháp năm 1959, mô hình kinh tế Xô viết được từng bước áp dụng ở Việt Nam. Ngoài các công ty của tư sản mại bản, tay sai và phản động được quốc hữu hóa, thì các công ty và cơ sở kinh doanh tư nhân của người Việt Nam (chủ yếu hình thành sau năm 1954 khi thực dân Pháp rút về nước) được chuyển sang hình thức công ty công – tư hợp doanh1. Một nền kinh tế khép kín với việc không công nhận sở hữu tư nhân, bên cạnh đó quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên cơ cấu ngành, nghề không đa dạng, kém phát triển cả về chất và lượng. Thuật ngữ “công ty” vẫn được dùng để chỉ một số nhà máy, xí nghiệp quốc doanh. Các loại hình công ty theo đúng nghĩa thương mại đã bị lãng quên trong các văn bản pháp luật và không xuất hiện trong giai đoạn từ sau năm 1960 đến trước năm 19902.
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vào cuối năm 1986, Đảng ta thay đổi chù trương từ nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và ghi nhận hình thức sở hữu tư nhân. Từ đây, khu vực kinh tế tư nhân có điều kiện để khôi phục lại và phát triển. Trên cơ sở kế thừa tinh thần về mô hình công ty hợp danh frong Luật doanh nghiệp cũ, và hiện nay là Luật doanh nghiệp năm 2020 đã có điểm mới tiên bộ về quy chế pháp lý thành viên công ty, cơ cấu tổ chức quản lý, các vấn đề tài chính được quy định rõ ràng hơn.
2. Các vấn đề về tài chính của công ty hợp danh
2.1 Vấn đề góp vốn của thành viên công ty
Muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh, một yêu cầu đặt ra là các chủ thể kinh doanh phải có vốn, đây là cơ sở vật chất bảo đảm việc thực hiện các hoạt động kinh doanh được tiến hành, vốn có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến suốt quá trình tồn tại và phát triển của công ty. Trong đó, vốn điều lệ đóng vai trò quan trọng nhất, vốn điều lệ có ý nghĩa là sự cam kết mức trách nhiệm vật chất của các thành viên với khách hàng, đối tác; là vốn đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở để phân chia lợi nhuận cũng như rủi ro trong kinh doanh đối với thành viên góp vốn vào công ty.
Các thành viên công ty hợp danh khi đã cam kết góp vốn vào công ty là họ đã tạo ra một thực thể pháp lý mới, độc lập với các thành viên, thực thể pháp lý đó sẽ nhân danh chính mình thực hiện các hoạt động của mình thông qua hành vi của các thành viên hợp danh. Nghĩa là có sự tách bạch tài sản giữa thành viên và công ty, do đó tài sàn của thành viên, sau khi góp vốn vào công ty sẽ chuyển thành sở hữu cua công ty.
Thành viên họp danh và thành viên góp vốn có nghĩa vụ góp đủ và đúng hạn số vốn như đã cam kết. Thành viên hợp danh không góp đủ và đủng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty. Đối với thành viên góp vốn, số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty. Việc không thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn như đã cam kết là một trong các căn cứ để khai trừ thành viên khỏi công ty. Theo Luật doanh nghiệp năm 2020 thì việc không góp vốn như đã cam kết sau khi công ty đã có yêu cầu lần thứ hai là một frong những căn cứ để khai trừ thành viên hợp danh khỏi công ty. Trong khi đó, theo quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2020 thì thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết có thể bị khai trừ khỏi công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên, mà không cần phân biệt thời điểm yêu cầu góp vốn từ công ty hợp danh.
2.2 Tăng và giảm vốn điều lệ
Luật doanh nghiệp năm 2020 không quy định cụ thể phương thức tăng giảm vốn điều lệ đối với công ty hợp danh như các loại hình công ty khác. Tuy vậy, theo các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020 có thể thấy việc tăng, giảm vốn điều lệ của công ty hợp danh được thực hiện trong những trường hợp:
Tăng vốn điều lệ bằng cách tăng vốn góp của các thành viên hiện hữu. Cách thức để thực hiện việc tăng vốn góp do điều lệ công ty quy định.
Tiếp nhận thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn mới. Thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn mới khi được tiếp nhận vào công ty thì phải nộp đủ số vốn đã cam kết vào công ty, điều này có nghĩa là vốn điều lệ của công ty sẽ tăng lên.
Công ty hợp danh có thể giảm vốn điều lệ khi thành viên rút khỏi công ty dưới các hình thức khác nhau mà cùng với đó là việc hoàn trả phần vốn góp. Theo đó, các trường hợp thành viên hợp danh tự nguyện rút vốn khỏi công ty; bị khai trừ khỏi công ty; chết mà người thừa kế không trở thành thành viên hợp danh; bị Tòa án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự; hoặc thành viên góp vốn bị khai trừ khỏi công ty mà hệ quả là công ty hợp danh phải hoàn trả phần vốn góp cho các thành viên này đều dẫn đến việc làm giảm vốn điều lệ của công ty. Các điều kiện rút khỏi công ty hợp danh của các thành viên tuân thủ theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty .
Nhìn chung, việc tăng vốn điều lệ được thực hiện khá đơn giản, tuy nhiên việc giảm vốn điều lệ có khả năng giảm khả năng trả nợ của công ty cho nên Luật doanh nghiệp năm 2020 đặt ra các điều kiện ràng buộc thành viên hợp danh. Đó là các quy định về chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn của các thành viên hợp danh, thậm chí trường hợp người chấm dứt tư cách thành viên hợp danh rồi vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn với các thành viên hợp danh khác theo quy định pháp luật.
2.3 Phân chia lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, nó không chỉ là mục tiêu hướng tới của công ty mà còn của các thành viên khi góp vốn vào kinh doanh. Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định về nguyên tắc phân chia lợi nhuận trong công ty hợp danh theo hai cách: chia tương ứng với phần vốn góp vào vốn điều lệ hoặc là theo thỏa thuận của các thành viên hợp danh. Cách thức phân chia lợi nhuận có thể khác nhau giữa thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Theo Luật doanh nghiệp năm 2020 thì thành viên góp vốn được chia lợi nhuận hàng năm tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty. Theo Luật doanh nghiệp năm 2020 thì thành viên hợp danh được chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp hoặc theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ công ty. Với quy định cho phép Điều lệ công ty xác định một cách thức chia lợi nhuận khác với tỷ lệ phần vốn góp, có ý nghĩa tích cực trong việc bảo đảm quyền tự chủ cho các thành viên hợp danh và khuyến khích những cá nhân ít vốn nhưng giỏi quản trị điều hành doanh nghiệp.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp – Công ty luật LVN Group