Luật sư phân tích:

1. Bản chất xã hội – chính trị của Hiến pháp:

Bên cạnh bản chất pháp lý là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, Hiến pháp còn mang bản chất xã hội – chính trị. Theo học giả người Đức Ph. Laxan, bản chất của Hiến pháp thể hiện ở chỗ “…Hiến pháp hiện hành của mỗi nước phản ánh mối tương quan lực lượng thực tế tồn tại trong xã hội; Hiến pháp là một văn bản viết chỉ bền vững và có ý nghĩa khi nó phản ánh đúng mối tương quan này. Sau này khi nghiên cứu vai trò của Hiến pháp đối với tổ chức và hoạt động của nhà nước tư sản V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất giai cấp của Hiến pháp. Theo V.I.Lênin, bản chất của Hiến pháp thể hiện ở chỗ, đạo luật cơ bản của nhà. nước nói chung và các đạo luật khác quy định về quyền bầu cử vào cơ quan dân cử, về thẩm quyền của cơ quan này, thể hiện mối tương quan lực lượng thực tế trong cuộc đấu tranh giai cấp. Bên cạnh bản chất giai cấp này Hiến pháp ngày nay của các nước còn thể hiện lợi ích của tất cả các bộ phận trong xã hội (tầng lớp, giai cấp). Bởi lẽ, các bản Hiến pháp được thông qua sau chiến tranh thế giới thứ hai và việc sửa đổi hiến pháp ban hành trước chiến tranh thế giới thứ hai đều có sự tham gia của các lực lượng chính trị trong xã hội và của toàn thể nhân dân thông qua cuộc trưng cầu ý dân.

2. Vai trò của Hiến pháp

Hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và nhà nước của các nước trên thế giới. Vai trò của Hiến pháp thể hiện ở những điểm sau: ở mỗi nước Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật. Vì hiến pháp là luật của luật, bởi vậy hiến pháp là nguồn của tất cả các ngành luật. Các ngành luật phải được xây dựng trên CƠ sở những nguyên tắc mà Hiến pháp ghi nhận; Hiến pháp còn là cơ sở pháp lý của hệ thống chính trị. Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức của nhà nước nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng, xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trung ương và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của chúng, xác định mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và với nhân dân. Đôi khi hiến pháp còn tạo cơ sở pháp lý cho cuộc cải cách chính trị; Hiến pháp còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục công dân nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật tôn trọng quy tắc sinh hoạt chung của cuộc sống xã hội, tôn trọng những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất (quyền tự do, nghĩa vụ, sở hữu, gia đình…).

3. Hiệu lực của Hiến pháp

Thông thường Hiến pháp có hiệu lực từ thời điểm được quy định trong điều khoản cuối cùng của Hiến pháp hoặc trong văn bản ban hành kèm theo Hiến pháp. Ví dụ, Hiến pháp hiện hành của Ba Lan được thông qua bởi Nghị viện ngày 2 tháng 4 năm 1997, được đưa ra trưng cầu dân ý ngày 25 tháng 5 năm 1997 nhưng theo Điều 243 Hiến pháp, Hiến pháp có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày công bố. Như vậy nếu tính ngày công bố là ngày đưa Hiến pháp ra trưng cầu ý dân thì Hiến pháp Balan có hiệu lực từ ngày 26/8/1997. Theo quy định của điểm 1 phần II. “Những điều khoản cuối cùng và điều khoản chuyển tiếp”. Hiến pháp Liên bang Nga có hiệu lực kể từ ngày công bố kết quả chính thức cuộc trưng cầu dân ý. Ngày 12/12/1993 Hiến pháp Liên bang Nga được đưa ra trưng cầu dân ý. Ngày 25/12/1993 kết quả cuộc trưng cầu dân ý bản Hiến pháp Liên bang Nga đã được công bố chính thức trên các báo “Báo nước Nga”, “Tin tức nước Nga”. Ngày này được coi là ngày Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 có hiệu lực.

Hiến pháp có hiệu lực trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia. Hiến pháp có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các cơ quan nhà nước, đối với cá nhân, mọi cơ quan tổ chức đoàn thể, ở trên lãnh thổ của quốc gia. Hiến pháp có hiệu lực đối với công dân, các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, ở nước ngoài. Các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác phải tôn trọng Hiến pháp của mỗi nước, trừ những quy định trái với những nguyên tắc chung được các nước thừa nhận, trái với quy định của luật pháp quốc tế.

Hiến pháp của một số nước còn bao hàm điều khoản quy định về hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp, Ví dụ, đoạn 2 Điều 8 Hiến pháp Ba Lan, đoạn 1 Điều 15 Hiến pháp Liên bang Nga. Việc quy định hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp làm nâng cao uy tín của Hiến pháp. Trên cơ sở quy định này trong nhiều trường hợp cơ quan lập pháp không phải ban hành văn bản quy phạm để cụ thể hóa các điều khoản của Hiến pháp. Khi xét xử thẩm phán có thể căn cứ vào các điều khoản trong Hiến pháp để ra bản án quyết định mà không phải căn cứ vào những quy định của luật và văn bản dưới luật.

4. Một vài sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng lập hiến ở Anh

4.1. Hiến chương tự do năm 1100

Vương quốc Anh được hình thành từ giữa thế kỷ IX, chính xác là vào năm 927 khi 7 vùng đất nước Anh đều thuần phục sự cai trị của vua Anh. Tuy nhiên, đến ngày 14 tháng 10 năm 1066, Vua Harold II của Anh bị bại trận và bị giết trong trận chiến Hastings với Công tước William của vùng Normandy nước Pháp. Trước nãm 1066 nước Anh được cai trị bởi những vị vua do những người được gọi là Witan (có nghĩa là sáng suốt) bầu ra. Sau khi người Norman xâm chiếm nước Anh, Vua Henry I lên ngôi và trị vì từ năm 1100 đến 1135. Khi mới lên ngôi Vua Henry I đã ban hành Bản hiến chương tự do (Charter of Liberties) năm 1100. Bản Hiến chương này đã tuyên bố: “Nhờ ơn Thượng đế và Hội đồng quý tộc của toàn thể vương quốc Anh mà ta được trao vương miệng Hoàng đế”. Với Hiến chương về tự do, nhà vua đã thừa nhận quyền cai trị đất nước của Vua không những xuất phát từ ý chí Thượng đế mà còn từ ý chí của Hội đồng quý tộc. Có thể nói đây là bước đầu chuyển từ tư tưởng quân chủ chuyên chế sang tư tưởng quân chủ lập hiến.

4.2. Hiến chương Magna Carta 1215

Vua John trị vì đất nước Anh từ năm 1199 đến 1216. Trong thời kỳ cai trị của mình Vua John phải đối chọi với nhiều cuộc xung đột quyền lực. Đó là các xung đột quyền lực giữa Anh và Pháp, giữa Anh và giáo hoàng La Mã, giữa Vua và các nhà quý tộc. Năm 1215 các nhà quý tộc Anh đã buộc vua John ký Hiến chương Magna Carta còn gọi là The Great Charter (Hiến chương vĩ đại). Hiến chương Magna Carta thừa nhận các quyền chính trị và dân sự của cá nhân như quyền của các thương nhân có thể ra, vào, ở lại hoặc di chuyển trong lãnh thổ nước Anh để buôn bán. Hiến chương cũng đảm bảo cho các cá nhân trung thành với vua có quyền nhập cảnh, xuất cảnh và tái nhập cảnh vào vương quốc Anh.

4.3 Triều đại Vua Henry III thế kỷ XIH và sự thành lập Nghị viện Anh năm 1265

Vua Henry III (1207 – 1272) thừa kế ngai vàng của Vua John khi mới lên 9 tuổi. Vì vậy, Triều đình Anh quốc phải thiết lập chế độ nhiếp chính cho đến khi vua Henry đủ 20 tuổi.

Dưới áp lực của các nhà quý tộc, đứng đầu là Simon de Montfort vua Henry phải chấp nhận sự ra đời và tồn tại của Nghị viện đầu tiên của nước Anh năm 1265. Đến đời Vua Richarch II vào năm 1381 một cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân đã nổ ra (Peasants, Revolt 1381), tuy bị thất bại nhưng nó đã góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ chế độ nông nô.

4.4 Đạo luật về quyền lực tối cao năm 1534

Dưới triều Vua Henry VIII một đạo luật về quyền lực tối cad (Act of Supremacy) được ban hành vào năm 1534 đã quy định Vua id người đứng đầu tối cao (Supreme head) của nhà thờ Anh, còn Luật về quyền lực tối cao năm 1559 đã quy định Nữ hoàng Elizabet I là thống đốc tối cao của nhà thờ Anh (Supreme Governor of the Church of England). Tuy nhiên, Nữ hoàng phải được sự đồng ý của Nghị viện khi ban hành bất cứ chính sách nào. Nghị viện ngay từ thời kỳ Nữ hoàng Elizabet trị vì đã có hai viện. Thượng viện đại diện cho tầng lớp quý tộc nên được gọi là House of Lords (Viện quý tộc), còn Hạ viện đại diện cho từng lớp trung lưu trong xã hội nên được gọi là House of Common (Viện bình dân). Hạ viện nhanh chóng phát triển do sự phát triển đột biến của tầng lớp trung lưu trong xã hội thời kỳ này. Đặc biệt trong Hạ viện xuất hiện khối Nghị sĩ đại diện cho những người theo đạo Tin lành (Puritans) luôn luôn đòi hỏi mở rộng các quyền cho những người theo đạo này. Tuy nhiên, Nữ hoàng Elizabet I là người có tính cách mạnh mẽ nên đã không để cho nhóm Nghị sĩ này thao túng.

4.5 Triều đại Tudors (1485-1603)

Trong thời kỳ dòng họ Tudors trị vì nước Anh (1485 – 1603) một học giả là Geoffrey Elton đã xây dựng một bản Hiến pháp gọi là Hiêh pháp Tudors (The Tudor Constitution) theo trường phái nhà nước Hy Lạp cổ đại, theo mô hình của Cộng hoà Sparte. Một học giả khác khá nổi tiếng cùng thời là John Aylmer đã cổ vũ cho tư tưởng lập hiến của Bản hiến pháp này và cho rằng Hiến pháp Tudors là anh em họ hàng với nền cộng hoà cổ điển Sparte. Mặc dù Hiến pháp Tudors đã không được Nghị viện và Vua chấp nhận nhưng cùng với Geoffrey Elton, John Aylmer và một số người cùng thời đã làm sông lại tư tưởng dân chủ thời kỳ Hy Lạp cổ đại và đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng lập hiến ở Anh thời kỳ này là xây dựng một chế độ chính trị kết hợp những tư tưởng dân chủ Hy Lạp thời kỳ cổ đại với chế độ quân chủ mới ở Anh để xây dựng một chế độ cộng hoà Nghị viện.

4.6 Vua James I (1603 -1625)

Khi Nữ hoàng Elizabeth I từ trần (năm 1603), không có sự bàn luận, ngai vàng của Nữ hoàng được chuyển giao cho cháu là James VI, con trai của Nữ hoàng Scotland và James VI của Scotland trở thành Vua James I của vương quốc Anh. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc thiết lập liên hiệp Anh. Vua James I của Anh là một người sùng bái học thuyết quyền lực của Vua xuất phát từ ý chí Thượng đế (The Di vin Right of Kings theory). Vua do Thượng đế lựa chọn và chỉ chịu trách nhiệm trước Thượng đế do vậy nhà vua phải toàn quyền. Quan điểm này của James I được củng cố thêm bởi niềm tin tôn giáo vì James là người theo đạo Tin lành, người luôn tin rằng số phận con người do chúa định đoạt. James I vì thế đã chống lại tư tưởng bầu cử, đặc biệt là quan điểm phổ biến lúc bấy giờ ở Anh là giáo đoàn (congregation) bầu ra các mục sư của họ. Do bất đồng quan điểm James luôn xung đột với giáo sĩ đạo Tin lành và ông cũng buộc phải nhượng bộ để giáo đoàn ban hành cuốn “Kinh thánh Vua James” (King James Bible) – thực tế là cuốn sách dịch và chú giải cuốn Kinh thánh của Rome sang tiếng Anh.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hang còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc.

Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group