1 Quy định về chính sách an sinh xã hội

An sinh xã hội (ASXH) là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội và là chìa khóa để phát triển toàn diện và bền vững. Để những chính sách, pháp luật về ASXH đi vào cuộc sống và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng thì các cơ quan nhà nước phải có trách nghiệm, nghĩa vụ thực hiện công khai, minh bạch và coi việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng các quyền con người là mục tiêu chính trong thực hiện các chính sách ASXH. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả tập trung làm rõ khái niệm công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH hiện nay; đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện công khai, minh bạch trong lĩnh vực này.

1.1 Quan niệm về an sinh xã hội

Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội bao gồm các khoản trợ cấp bằng tiền, lương hưu, trợ cấp và khoản khác cho những người có công và những người trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao gồm cả an sinh xã hội theo nghĩa hẹp và các chương trình giảm nghèo, các chương trình điều tiết thị trường lao động và các chương trình khác

Một số tác giả cho rằng “an sinh xã hội” chủ yếu là “bảo hiểm xã hội”và có thể được hiểu là “sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.

Luật Bảo hiểm xã hội của Việt Nam quy định hai hình thức bảo hiểm xã hội là: Bảo hiểm xã hội bắt buộc do Nhà nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia; Bảo hiểm xã hội tự nguyện do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình

Luật pháp quy định Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.

Luật Bảo hiểm xã hội (2014) quy định bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm 5 chế độ và hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm 2 chế độ. Bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm: (i) Ốm đau, (ii) Thai sản, (iii) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, (iv) Hưu trí, (v) Tử tuất.

Bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm: (i) Hưu trí, (ii) Tử tuất. Như vậy, với Luật Bảo hiểm xã hội, Việt Nam đã thiết chế hóa được 5 chế độ an sinh xã hội, vượt xa định mức 3 tiêu chuẩn tối thiểu trong 9 chế độ an sinh xã hội mà Công ước số 102 của ILO quy định vào năm 1952.

Quan niệm toàn diện về an sinh xã hội được phản ánh rõ nhất trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1-6-2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”. Nghị quyết đánh giá, nêu những thành tựu đồng thời chỉ ra những hạn chế, xác định phương hướng và giải pháp thực hiện chính sách an sinh xã hội thời gian tới

1.2 Thực trạng chính sách an sinh xã hội

Các văn bản chính sách. Hiện nay, Việt Nam có 146 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội (1997-2013) . Trong đó, văn bản thuộc “Nhóm chính sách hỗ trợ giáo dục tối thiểu” – Quyết định 1121/1997/QĐ-TTg ngày 23-12-1997 của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập, là chính sách an sinh xã hội được ban hành sớm nhất và hiện nay vẫn đang áp dụng. Các văn bản chính sách an sinh xã hội không được ban hành đồng đều trong các năm: giai đoạn 1997-2005 có 11 văn bản, nhưng năm 1999, 2001 và 2003 không có văn bản nào. Còn lại 135 văn bản được ban hành năm 2006-2013, trung bình mỗi năm ban hành 16-17 văn bản (Riêng năm 2013 ban hành nhiều nhất với 31 văn bản).

Về hình thức văn bản, trong 146 văn bản có một văn bản là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020) và 5 luật: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004) có hiệu lực từ ngày 1-1-2005; Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (2006) có hiệu lực từ ngày 1-1-2007; Luật Bảo hiểm xã hội (2006, 2014) có hiệu lực từ ngày 1-1-2007; Luật Người cao tuổi (2009) có hiệu lực từ ngày 1-7-2010; Luật Bảo hiểm y tế (2006, 2016).

Các nhóm nội dung chính sách an sinh xã hội.Trong 146 văn bản, có hai văn bản chính sách về an sinh xã hội chung là Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 1-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết 70/NQ-CP của Chính phủ ngày 1-11-2012 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 15/NQ/TW. Còn lại 144 văn bản chính sách hiện hành về an sinh xã hội được chia thành bốn nhóm chính sách an sinh xã hội, cụ thể:

Chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động với 33 văn bản hiện hành (2001-2013); Chính sách hỗ trợ giảm nghèo với 14 văn bản hiện hành (2005-2013);

Chính sách bảo hiểm xã hội với 5 văn bản hiện hành (2006-2012);

Chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn với 18 văn bản hiện hành (2000-2013) và được chia thành hai nhóm nhỏ: trợ giúp xã hội gồm 16 văn bản chính sách hiện hành(2000-2013) và hỗ trợ rủi ro đột xuất do thiên tai và rủi ro thị trường gồm 2 văn bản chính sách hiện hành (2010-2011);

Chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu với 74 văn bản hiện hành (1997-2013) và được chia thành 5 nhóm nhỏ: hỗ trợ giáo dục tối thiểu với 29 văn bản (1997-2013), hỗ trợ y tế tối thiểu với 15 văn bản (2002-2013), hỗ trợ nhà ở với 13 văn bản ( 2008-201), bảo đảm nước sạch với 7 văn bản (2006-2013) và bảo đảm thông tin truyền thông cho người nghèo với 6 văn bản (2006-2013).

Trên thực tế, Việt Nam đã đầu tư thực hiện chính sách an sinh xã hội theo cả nghĩa rộng và hẹp. An sinh xã hội theo nghĩa rộng gồm 9 hợp phần chính sách, cụ thể: Các chương trình giảm nghèo (Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình 135 và Chương trình 30 và chính sách giảm nghèo (trừ hỗ trợ giáo dục và bảo hiểm y tế; Các chương trình điều tiết thị trường lao động (dạy nghề, xuất khẩu lao động và việc làm); Bảo hiểm xã hội và thất nghiệp (ngân sách chi trả lương hưu cho người nghỉ hưu trước 1995 và hỗ trợ bảo hiểm tự nguyện; Hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế; Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo; Hỗ trợ giáo dục (miễn giảm học phí, học bổng, hỗ trợ học nội trú và ăn trưa); Chăm sóc xã hội; Trợ giúp đột xuất; Trợ giúp xã hội (hỗ trợ tiền mặt hàng tháng theo Nghị định 67, 13, 136).

An sinh xã hội theo nghĩa hẹp, bao gồm các khoản trợ cấp: Các khoản trợ cấp bằng tiền gồm phúc lợi trợ cấp bằng tiền hàng tháng, trợ cấp đột xuất trong trường hợp thảm họa, thiên tai; trợ cấp cho người có thu nhập thấp; trợ cấp tiền điện (từ năm 2011); Phúc lợi bảo hiểm xã hội bao gồm lương hưu trong đó có lương hưu cho những người nghỉ hưu trước tháng 7-1995 (do ngân sách nhà nước chi trả) và lương hưu cho những người nghỉ hưu sau tháng 5-1995 (do Bảo hiểm Việt Nam chi trả); Trợ cấp cho người có công với cách mạng; Hỗ trợ công chức làm việc tại các vùng khó khăn, hỗ trợ xây dựng công trình ngăn lũ, tái định cư các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số (kể từ năm 2009); hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở khu vực nông thôn (kể từ 2009); trợ cấp cho các xã biên giới với Lào và Campuchia (từ 2009); hỗ trợ xây dựng nông thôn mới (từ 2010), hỗ trợ sản xuất, nuôi trồng thủy sản ở hải đảo
(từ 2010).

Như vậy, ngay cả trong định nghĩa hẹp này an sinh xã hội cũng có xu hướng mở rộng bao gồm cả hợp phần chương trình giảm nghèo, hợp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và hợp phần xây dựng nông thôn mới.

Tổng chi an sinh xã hội cho các trợ cấp bằng tiền, lương hưu và các khoản khác chiếm 4% GDP và hầu như không thay đổi trong giai đoạn 2007 – 2011, trong đó “phúc lợi bảo hiểm xã hội gồm lương hưu” chiếm trên 50%, mặc dù có giảm từ mức 2,7% xuống còn 2,3%; trợ cấp cho người có công giảm từ 1% xuống còn 0,9%, các khoản trợ cấp bằng tiền tăng gấp đôi từ 0,2% lên 0,5% và các khoản khác tăng gấp ba: từ 0,1% lên 0,3%.

2 Xử lý đảng viên vi phạm trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội

Theo quy định tại Điều 20 Quy định 102-QĐ/TW năm 2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm do Ban Chấp hành Trung ương ban hành thì nội dung này được quy định như sau:

1 .Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:

a) Thiếu trách nhiệm, thực hiện không đầy đủ, không đúng, không kịp thời các quy định về chính sách an sinh xã hội.

b) Vi phạm trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, chính sách ưu đãi đối với người có công.

c) Vi phạm các quy định về việc vận động, tiếp nhận, phân phối các nguồn đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.

d) Xác nhận không đúng để bản thân hoặc người khác hưởng các chính sách an sinh xã hội, chính sách ưu đãi đối với người có công.

2.Trường hợp đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ):

a) Vi phạm trong thực hiện các chương trình xã hội, chính sách bảo hiểm.

b) Khai khống để hưởng chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công; hoặc tác động để bản thân và bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột được hưởng chính sách an sinh xã hội, cứu trợ, cứu nạn không đúng quy định.

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chi sai mục đích, đối tượng, định mức, tiêu chuẩn chính sách an sinh xã hội.

d) Thiếu trách nhiệm trong việc phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.

3.Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ.

3 Quy định về công khai minh bạch trong lĩnh vực an sinh

Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước góp phần đảm bảo cho người dân tiếp cận thông tin một cách có hiệu quả, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân giám sát và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Khoản 4 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 quy định: “Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là việc công bố, cung cấp thông tin, giải trình về tổ chức bộ máy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị”.
An sinh xã hội (ASXH) là một trong những lĩnh vực có đối tượng thụ hưởng rất lớn liên quan đến quyền được đảm bảo ASXH của công dân. ASXH là hệ thống chính sách, các chương trình của Nhà nước và của các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡ toàn xã hội, các cá nhân gặp phải rủi ro hoặc biến cố xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ. Do vậy, ASXH góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội khi họ không may gặp phải những “rủi ro xã hội” hoặc các “biến cố xã hội” dẫn đến ngừng hoặc giảm thu nhập. Phương thức hoạt động của ASXH là thông qua các biện pháp công cộng tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội hướng tới sự hưng thịnh và hạnh phúc cho mọi người và cho xã hội.
Vấn đề công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH liên quan trực tiếp đến quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, của cơ quan quản lý nhà nước về ASXH trong việc cung cấp thông tin, giải thích, hướng dẫn, trả lời về pháp luật, chính sách ASXH và việc thực hiện cho đối tượng thụ hưởng trước công luận và toàn xã hội với hình thức, trình tự, thủ tục và thời hạn theo luật định. Hay nói cách khác, công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH là nghĩa vụ của Nhà nước trong việc công bố, cung cấp thông tin chính sách, pháp luật về ASXH và việc thực hiện cho đối tượng thụ hưởng một cách chủ động, đầy đủ và rõ ràng để dân biết được, hiểu được; qua đó, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chính sách pháp luật về ASXH.
Công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH có vai trò rất lớn đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền của công dân, giúp người dân nắm bắt được các chính sách ưu đãi, các quy định của pháp luật về ASXH, hiểu rõ các dịch vụ mà Nhà nước đang cung cấp cho người dân; giúp Nhà nước thấy được các nhu cầu thực sự của người dân để có những thay đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng được các nhu cầu đó. Qua đó, tăng cường niềm tin của người dân vào chính quyền.
Ngoài ra, quá trình thực hiện công khai, minh bạch trong lĩnh vực ASXH còn giúp Nhà nước quản lý và phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin cùng với sự minh bạch trong hoạt động quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tối ưu và tăng cường hiệu quả, tránh được thất thoát, lãng phí, những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra. Đồng thời, đảm bảo cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân thực hiện các quy định của pháp luật đúng mục đích, đúng đối tượng; ngăn chặn những sai phạm và phòng, chống tham nhũng trong việc thực hiện các quy định về ASXH. Từ đó, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ASXH, đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc cải hành chính hiện nay.

Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết , Hãy gọi ngay: 1900.0191 để đượcLuật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group

Công Ty Luật LVN Group xin cảm ơn!!