1.Việc hỏi người giám định, người định giá tài sản tại phiên tòa hình sự được tiến hành như thế nào?

>> Xem thêm: Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong tố tụng dân sự ?

Việc hỏi người giám định, người định giá tài sản tại phiên tòa hình sự được quy định tại Điều 316 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Theo đó:

1. Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa yêu cầu người giám định, người định giá tài sản trình bày kết luận của mình về vấn đề được giám định, định giá tài sản. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ để đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản.

2. Kiểm sát viên, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án.

3. Trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản.

4. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản.

2. Quy định của pháp luật về định giá tài sản

>> Xem thêm: Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn trong doanh nghiệp được pháp luật quy định như thế nào ?

Hoạt động định giá tài sản trong tố tụng hình sự trước đây được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

BLTTHS năm 2015 ra đời, đã quy định cụ thể về định giá tài sản (Điều 69; Điều 101; Điều 215 đến Điều 222) bao gồm: Yêu cầu định giá tài sản; thời hạn định giá tài sản; tiến hành định giá, định giá lại tài sản; định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn; định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt; kết luận định giá tài sản; quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.

Để hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2015 về định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; sau đó Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 7/3/2018 quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong TTHS theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự.

Để hướng dẫn thi hành Nghị định của Chính phủ về định giá tài sản, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018; sau đó ban hành Thông tư 30/2020/TT-BTC ngày 17/4/2020 để hướng dẫn Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019, thay thế Thông tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018. Quy định về phân loại tài sản cần định giá, cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến yêu cầu định giá tài sản; tiếp nhận và triển khai yêu cầu định giá tài sản; thành lập Hội đồng định giá tài sản; quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản, Tổ giúp việc Hội đồng định giá tài sản; căn cứ định giá tài sản; lập kế hoạch định giá tài sản; khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; yêu cầu khi áp dụng phương pháp định giá tài sản; chi phí định giá, định giá lại tài sản trong tố tụng hình sự.

3. Kỹ năng hỏi người giám định, người định giá tài sản và người khác

>> Xem thêm: Vai trò của thẩm phán, bồi thẩm đoàn, người bào chữa, công tố trong quá trình xét xử theo pháp luật Hoa Kỳ ?

Trong trường hợp cần thiết, nếu HĐXX không hỏi người giám định, người định giá tài sản thì KSV đề nghị HĐXX tiến hành hỏi người giám định, người định giá tài sản theo quy định tại Điều 316 BLTTHS năm 2015. Khi trình bày, người giám định, người định giá tài sản có quyền giải thích, bổ sung về kết luận giám định, định giá tài sản, căn cứ đưa ra kết luận giám định, định giá tài sản. Kiểm sát viên cần chú ý để hỏi rõ những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án. Trong trường hợp người giám định, người định giá tài sản không có mặt tại phiên tòa, KSV đề nghị chủ tọa phiên tòa công bố kết luận giám định, định giá tài sản (nếu chủ tọa phiên tòa không công bố). Trong trường hợp cần thiết, KSV có quyền đề nghị HĐXX quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại, định giá lại tài sản.

Ngoài một số kỹ năng nêu trên, muốn nâng cao năng lực xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự, trước hết mỗi KSV phải tích cực nghiên cứu, học tập để nắm vững các quy định của pháp luật, nhất là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự, các văn bản luật có liên quan, các hướng dẫn áp dụng pháp luật; thường xuyên rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ về tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự như: Kỹ năng diễn đạt, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng trình bày bản luận tội, kỹ năng đối đáp, khả năng phản xạ linh hoạt trước các nội dung mới phát sinh tại phiên tòa. Đồng thời, KSV cần thể hiện sự ứng xử có văn hóa trong thái độ, cách xưng hô tại phiên tòa, bảo đảm tôn trọng sự điều hành của chủ tọa phiên tòa và những người tham gia tố tụng, nhất là những người tham gia tranh luận với mình, làm tốt những vấn đề nêu trên là trực tiếp nâng cao vị thế của chính KSV tại phiên tòa và cũng là góp phần nâng cao vai trò, vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân.

4. Một số vướng mắc, bất cập trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm

>> Xem thêm: Bản cáo trạng là gì ? Khái niệm về bản cáo trạng ?

Ví dụ: Nguyễn Văn H bị VKSND huyện A truy tố về tội trộm cắp tài sản. Tài sản bị chiếm đoạt là một chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA đã qua sử dụng. Chiếc xe ô tô đã được Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện A thực hiện định giá lần đầu theo yêu cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A và có kết luận giá trị chiếc ô tô tại thời điểm bị chiếm đoạt (năm 2020) là 300.000.000đ. Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bị can H có đơn đề nghị định giá lại tài sản vì cho rằng kết quả định giá này là quá cao so với giá trị thực tế của chiếc xe (xe ô tô mua năm 2006, xe vận tải hành khách thường xuyên nên xuống cấp nghiêm trọng). TAND huyện A đã ra văn bản yêu cầu định giá tài sản gửi Hội đồng định giá tài sản trong TTHS cấp tỉnh định giá lại tài sản. Hội đồng định giá tài sản cấp tỉnh tiến hành việc định giá lại và có kết luận chiếc xe ô tô nói trên có giá trị là 180.000.000đ.

Vấn đề đặt ra là việc ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản nêu trên của Tòa án nhân dân huyện A có phù hợp hay không?

Quan điểm thứ nhất: Theo quy định tại khoản 5 Điều 252 BLTTHS, Tòa án có quyền yêu cầu định giá lại tài sản. Nên nếu xét thấy nghi ngờ về kết luận định giá tài sản lần đầu thì Tòa án có quyền ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.

Quan điểm thứ hai: Tòa án không ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản mà trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu Viện kiểm sát tiến hành định giá lại tài sản. Nếu Viện kiểm sát tiến hành định giá lại tài sản thì Tòa án căn cứ vào kết luận định giá lại tài sản để giải quyết vụ án. Nếu Viện kiểm sát không tiến hành định giá lại tài sản mà chuyển hồ sơ lại cho Tòa án, nếu xét thấy nghi ngờ về kết luận định giá tài sản lần đầu thì căn cứ khoản 5 Điều 252 BLTTHS, Tòa án ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Theo quan điểm của chúng tôi, để giải quyết chính xác, đảm bảo chặt chẽ và khách quan vụ án, Tòa án không ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản mà tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung, yêu cầu Viện kiểm sát tiến hành định giá lại tài sản, như hướng giải quyết theo quan điểm thứ hai là phù hợp. Trường hợp Viện kiểm sát không tiến hành định giá lại tài sản mà chuyển hồ sơ lại cho Tòa án, nếu xét thấy nghi ngờ về kết luận định giá tài sản lần đầu thì căn cứ khoản 5 Điều 252 BLTTHS, khoản 1 Điều 21 Nghị định 30/2018/NĐ-CP, Tòa án ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.

Vấn đề thứ hai là Tòa án có được sử dụng kết quả định giá lại tài sản để giải quyết vụ án không?

Từ ví dụ nêu trên, có quan điểm cho rằng việc định giá lại tài sản mặc dù có sự khác nhau với kết quả định giá lần đầu nhưng đảm bảo đúng thủ tục quy định do Hội đồng định giá tài sản trong TTHS cấp tỉnh thực hiện. Nên kết quả định giá lại tài sản được sử dụng để giải quyết vụ án.

Theo chúng tôi, khi có kết luận định giá lại tài sản, nếu có mâu thuẫn với kết luận định giá lần đầu thì Tòa án kiểm tra tính xác thực của kết quả định giá lại. Nếu kết luận định giá lại tài sản đảm bảo thủ tục theo quy định, không có nghi ngờ về kết quả định giá lại thì sử dụng để giải quyết vụ án. Nếu có căn cứ nghi ngờ về kết quả định giá lại thì căn cứ khoản 2 Điều 218 BLTTHS, khoản 2 Điều 21 Nghị định 30/2018/NĐ-CP, Tòa án ra văn bản yêu cầu định giá lại lần hai, kết luận định giá lại tài sản lần hai được sử dụng để giải quyết vụ án.

5. Trong vụ án có 2 người bị thiệt hại về tài sản nhưng 1 người từ chối định giá tài sản

>> Xem thêm: Những trường hợp nào phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát giải quyết ?

Trước hết, đây là hậu quả do hành vi phạm tội gây ra nhưng chưa được cơ quan tiến hành tố tụng xác minh, điều tra cụ thể; trong khi tình tiết này dùng để xác định có hành vi phạm tội không; có thể ảnh hưởng tới việc xác định khung hình phạt; để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội làm cơ sở giải quyết vụ án. Tuy nhiên, khi cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định yêu cầu định giá tài sản đối với tài sản của 2 người bị thiệt hại về tài sản, 1 người từ chối việc định giá tài sản vì cho rằng tài sản của họ không đáng kể, nên không cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến tài sản cần định giá. Tòa án giải quyết vụ án như thế nào?

Quan điểm thứ nhất, Tòa án đề nghị Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát yêu cầu định giá tài sản thông qua loại tài sản tương tự để có căn cứ đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi có kết luận định giá tài sản thông qua loại tài sản tương tự thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Quan điểm thứ hai, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu định giá tài sản, nhưng người bị thiệt hại về tài sản vẫn giữ nguyên quan điểm từ chối việc định giá tài sản thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử và Hội đồng xét xử tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai là phù hợp. Sau khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra đã thuyết phục nhưng người bị thiệt hại về tài sản vẫn giữ nguyên quan điểm từ chối việc định giá tài sản, không cung cấp thông tin về tài sản cần định giá. Do đó, khi nhận lại hồ sơ vụ án không có kết luận định giá tài sản, theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo thì Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử, xác định tư cách tham gia tố tụng của người này là người làm chứng. Khi không có thông tin về tài sản cần định giá thì việc định giá tài sản thông qua loại tài sản tương tự là không đúng quy định của pháp luật.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự, định giá tài sản trong quá trình tố tụng. Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group