1. Trường phái và mô hình Viện công tố (VCT)

VCT chỉ là cơ quan nhà nước hoạt động chủ yếu trong phạm vi đấu tranh chống tội phạm, thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự, tham gia buộc tội nhân danh nhà nước trước tòa án như là một bên tranh tụng bình đẳng với bên bào chữa. VCT thuộc về quyền lực hành pháp. Sự tham gia của VCT trong TTHS là cần thiết và không thể thiếu được. Không có sự tham gia của VCT thì tòa án không thể xét xử được. Viện trưởng VCT đồng thời là Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ở một số nước VCT nằm trong hệ thống tòa án. Cơ sở lý luận của trường phái này là học thuyết phân chia ba quyền: hành pháp, lập pháp và tư pháp. VCT không có chức năng kiểm sát (hay giám sát) tuân theo pháp luật hoặc có nhưng ở những phạm vi rất hạn chế trong tố tụng dân sự, thủ tục phá sản khi liên quan đến lợi ích nhà nước và trật tự công cộng. Thí dụ hệ thống pháp luật của Hoa kỳ không hề biết đến chế định kiểm sát tuân theo pháp luật. Cơ quan Công tố (Attorney) có chức năng cố vấn pháp lý cho chính phủ, đại diện cho nhà nước trước tòa án khi có tranh chấp liên quan đến lợi ích của nhà nước và buộc tội nhân danh nhà nước, trong đó hoạt động buộc tội là hoạt động quan trọng nhất. Vấn đề hợp pháp hay không hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân do tòa án giải quyết trên cơ sở tranh chấp của các bên. Tòa án là trọng tài tối cao và là người giám sát việc tuân thủ pháp luật.

Mô hình VCT thực chất là mô hình dựa trên nền tảng phân chia quyền lực, đề cao vai trò của tòa án, đề cao nguyên tắc tự định đọat và tranh tụng giữa các bên có xung đột pháp lý. Đây là mặt tích cực của mô hình này. Nhưng để công bằng cần phải xét đến cả những hạn chế của nó. Hạn chế lớn nhất của mô hình này là trong nhà nước không có một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quan trọng, cần thiết cho bất kỳ nhà nước pháp quyền nào là hoạt động giám sát tuân theo pháp luật trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật, bảo đảm pháp chế thống nhất.

2. Viện công tố theo quy định của pháp luật Việt Nam là gì?

Viện công tố là cơ quan nhà nước do Quốc hội thành lập thực hiện nhiệm vụ công tố. Viện công tố thành lập vào năm 1958 (Viện công tố nhân dân trung ương) tồn tại trong một thời gian ngắn ở Việt Nam (1958 – 1960).

3. VCT được quy định như thế nào theo pháp luật Việt Nam?

3.1. Nhiệm vụ của VCT

Theo Điều 1 Nghị định 256-Ttg quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố:

– Nhiệm vụ chung của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo luật hình những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi.

– Nhiệm vụ cụ thể của Viện Công tố là:

+ Điều tra và truy tố trước tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự;

+ Giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra của cơ quan điều tra;

+ Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc xét xử của các tòa án;

+ Giám sát việc chấp hành luật pháp trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo;

+ Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trong có liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

– Trong việc chấp hành các nhiệm vụ nói trên, Viện Công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm pháp.

3.2. Cơ cấu tổ chức của hệ thống công tố ?

Căn cứ theo Nghị định 256-Ttg quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố

“Điều 3 Hệ thống công tố gồm có:

– Viện Công tố trung ương;

– Viện Công tố địa phương các cấp;

– Viện Công tố quân sự các cấp;

Điều 4: – Viện Công tố có Viện trưởng, Viện phó và một số Công tố ủy viên.

Viện trưởng, Viện phó và Công tố ủy viên lập thành Ủy ban Công tố có trách nhiệm xử lý những vấn đề quan trọng thuộc công tác công tố dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng.

Điều 5: – Tổ chức Viện Công tố trung ương gồm:

– Văn phòng;

– Vụ Giám sát điều tra;

– Vụ Giám sát xét xử;

– Vụ Giám sát giam giữ và cải tạo;

– Các Phòng nghiệp vụ do Viện trưởng Viện Công tố trung ương thành lập sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Điều 6: – Tổ chức Viện Công tố quân sự và các cấp sẽ quy định sau.

Điều 7: – Ông Viện trưởng Viện Công tố trung ương, ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông Bộ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.”

Hệ thống cơ quan công tố theo Thông tư số 601-TCCB ngày 6/8/1959 của Viện trưởng Viện công tố trung ương gồm có: Viện Công tố Trung ương (trực thuộc Hội đồng Chính phủ); Viện Công tố phúc thẩm Hà Nội Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, từ 27/8/1959 có thêm Viện Công tố khu tự trị Việt Bắc và Viện công tố khu tự trị Thái – Mèo (Nghị định số 321-TTg ngày 27/8/1959); Viện Công tố tỉnh, thành phố khu đặc biệt Hồng Quảng, Vĩnh Linh; Công tố huyện, thị trấn lớn và cấp tương đương.

Việc xử lý tội phạm của cơ quan công tố quán triệt phương châm: trấn áp địch ngay từ khi hoạt động mới nhen nhóm, nghiêm trị bọn cầm đầu xúi giục, đối với người lao động vì hoàn cảnh mà phạm pháp thì xử lý có tình có lý, nặng về giáo dục cải tạo.

Thời kỳ này hoạt động công tố tham gia đấu tranh chống tội phạm trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế… Công tố viên đã thể hiện vai trò buộc tội trong các phiên tòa hình sự, điển hình là vụ Ôn Như Hầu (Hà Nội), vụ Lê Thành Công (Tuyên Quang), vụ Trần Dụ Châu (Bộ Quốc phòng), vụ phỉ Đồng Văn…; tội phạm trong thời kỳ cải cách ruộng đất, chủ động xác minh, sửa sai hàng chục ngàn vụ án; phối hợp với Công an, Tòa án xử lý nhiều vụ gây rối do bọn phản động, gián điệp biệt kích, địa chủ gây ra, các vụ án vi phạm chính sách kinh tế, tài chính… Bên cạnh đó, Viện công tố còn trực tiếp điều tra những vụ án không phức tạp mà hành động phạm pháp đã công khai bộc lộ; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng; tổ chức kiểm tra (định kỳ, bất thường) các trại giam và trại cải tạo; công tác kiểm sát còn phục vụ cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp; bảo vệ tài sản của hợp tác xã, giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

4. Tại sao mô hình VCT chỉ tồn tại ở nước ta trong một thời gian ngắn?

Mô hình VCT đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du nhập vào sau khi xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Mô hình đó đã tiếp tục tồn tại sau Cách mạng Tháng Tám 1945, mặc dù hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước của chế độ thực dân – phong kiến bị xóa bỏ, thay vào đó là bộ máy của nhà nước kiểu mới. Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc đó Hiến pháp 1946 chỉ đề cập đến tổ chức tòa án. Trong cơ cấu của tòa án có các công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh nhà nước trước phiên tòa trong các vụ án hình sự. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958 VCT Trung ương được thành lập trên cơ sở tách các công tố viên ra khỏi tòa án, đánh dấu bước khởi đầu trong việc hình thành một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập với tòa án nhưng VCT Trung ương vẫn trực thuộc Chính phủ. Hoạt động chủ yếu của VCT vẫn là hoạt động công tố trước tòa án nhưng đã bao hàm một số yếu tố của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam giữ cải tạo. Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau mô hình VCT đã chấm dứt tồn tại. Vào thời điểm năm 1959-1960 cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới – giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH ở miền Bắc làm hậu thuẫn cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. “Nhu cầu của cuộc cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng CNXH sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Như vậy sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát (VKS) thay thế cho mô hình VCT ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất – điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Yêu cầu này càng có tính khách quan nếu xuất phát từ những đặc điểm lịch sử của đất nước vào thời điểm đó: nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, tâm lý dân tộc chịu ảnh hưởng nặng nề của quá khứ hàng nghìn năm phong kiến đầy rẫy những thiên kiến về pháp luật.

5. Viện công tố và Viện kiểm sát (VKS) thì mô hình nào tối ưu hơn?

So sánh VCT và VKS một cách khách quan thì khó có thể nói là mô hình nào tối ưu hơn mô hình nào. Mỗi mô hình đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó. Không có mô hình nào là lý tưởng. Việc hình thành, lựa chọn mô hình này hay mô hình khác ở mỗi quốc gia là kết quả của quá trình phát triển lịch sử lâu dài, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, điều kiện lịch sử khác nhau. Nhưng ở khía cạnh lý luận khó có thể phủ nhận mô hình VKS là mô hình thích hợp hơn với các quốc gia đặt mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền. Hoạt động của VKS chính là công cụ thực hiện tư tưởng nhà nước pháp quyền, khẳng định nguyên tắc thượng tôn pháp luật, là người bảo vệ pháp luật quan trọng nhất của quốc gia. Hiến pháp 1992 sửa đổi xác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Do vậy điều quan trọng nhất là chúng ta phải đưa ra được những lập luận để lý giải rằng VCT mới đích thực là cái mà chúng ta cần trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền chứ không phải là VKS? Những lập luận như vậy chưa có.