Sau khi tiến hành kiểm tra, nếu phát hiện văn bản pháp luật khiếm khuyết, cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý đối với văn bản đó. Xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết là việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành giải quyết đối với văn bản pháp luật có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý, theo thủ tục, nguyên tắc pháp luật quy định nhằm đình chỉ thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung, đính chính, thay thế một phần hoặc toàn bộ đối với văn bản pháp luật, đồng thời xem xét, xử lý trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể ban hành, tham mưu soạn thảo văn bản pháp luật đó.
Văn bản pháp luật khiếm khuyết được hiểu là văn bản “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không bảo đảm tiêu chí về chất lượng mà Nhà nước yêu cầu.
1. Những khiếm khuyết của văn bản pháp luật
Công tác ban hành văn bản pháp luật trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu lực của văn bản pháp luật. Tình trạng văn bản pháp luật được ban hành có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật vẫn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều cấp; nội dung văn bản pháp luật không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của các quan hệ xã hội; văn bản sai về hình thức hoặc không tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về thủ tục ban hành và quản lý văn bản vẫn là vấn đề phổ biến… Việc ban hành những văn bản pháp luật khiếm khuyết trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trước hết, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật là các quan hệ xã hội phong phú, đa dạng, luôn tồn tại khách quan. Vì thế việc nắm bắt thực trạng và phán đoán quy luật vận động của các quan hệ xã hội là rất khó khăn phụ thuộc vào nhiều yếu tố dẫn tới nội dung văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với tình hình thực tế, trở nên lạc hậu là tất yếu.
Hom nữa, do người soạn thảo còn hạn chế về trình độ chuyên môn, về việc sử dụng ngôn ngữ cũng như những kĩ năng pháp lý khác, thậm chí còn không tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về thủ tục ban hành cũng như quản lý văn bản pháp luật. Vì vậy, đây là nguyên nhân chủ quan dẫn tới việc ban hành văn bản pháp luật vi phạm về thủ tục và không bảo đảm tính hợp lý của văn bản.
Các quy định của pháp luật hiện hành về công tác ban hành văn bản pháp luật, nhất là văn bản áp dụng pháp luật còn chưa đầy đủ thậm chí quy định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, vì thế đã gây khó khăn trong việc ban hành ra chúng. Hiện nay, Nhà nước chưa ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực pháp luật cao quy định đày đủ về thể thức trình bày văn bản pháp luật cho nên trên thực tế thể thức của văn bản pháp luật không thống nhất.
Bên cạnh đó, trong quá trình ban hành văn bản pháp luật đôi khi các cơ quan soạn thảo còn lồng ghép lợi ích cục bộ của từng cấp, từng ngành vào nội dung văn bản.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên đây, việc ban hành văn bản pháp luật khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến ở nhiều cấp, nhiều ngành buộc các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền phải sử dụng biện pháp thích hợp để xử lý nhằm hoàn thiện chúng.
Trên cơ sở những yêu cầu về chất lượng của văn bản pháp luật được trình bày ở Chương 1, có thể xác định văn bản pháp luật khiếm khuyết là văn bản có một trong những biểu hiện sau đây:
2. Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị
Trước hết, đó là các văn bản pháp luật (chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng. Một văn bản pháp luật được ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xử lý.
Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
3. Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lý (bất hợp pháp)
– Sai hoặc thiếu căn cứ pháp lý
Căn cứ pháp lý là chuẩn mực pháp luật bảo đảm tính hợp
pháp cho văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Thực tế hiện nay cho thấy, một số văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực pháp lý nhưng vẫn được viện dẫn làm căn cứ để ban hành văn bản pháp luật khác. Có trường hợp cơ quan ban hành văn bản pháp luật còn viện dẫn văn bản hành chính thông thường và văn bản của các tổ chức xã hội làm căn cứ pháp lý. Phổ biến hơn là trường hợp viện dẫn thiếu hoặc viện dẫn sai căn cứ pháp lý về thẩm quyền hoặc nội dung ban hành văn bản pháp luật.
– Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung.
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có thể loại không đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trước hết, đó là việc cơ quan ban hành văn bản sử dụng thể loại văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của chủ thể khác. Ví dụ: Hội đồng nhân dân ban hành quyết định; uỷ ban nhân dân ban hành nghị quyết…
Bên cạnh đó, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử dụng văn bản hành chính như công văn, thông báo… để đặt ra các quy phạm pháp luật. Dấu hiệu khiếm khuyết này. Hiện nay khá phổ biến đối với những văn bản pháp luật không chỉ do cấp địa phương mà cả cấp trung ương ban hành.
Mặt khác, việc ban hành văn bản pháp luật vi phạm vê hình thức còn có thể xảy ra trong trường hợp chủ thể sử dụng tên văn bản pháp luật thuộc quyền nhung không phù hợp với nội dung giải quyết (không đúng vai trò của văn bản). Ví dụ: ban hành quyết định thay cho lệnh khám nơi cất giấu tang vật vi phạm, hay ban hành quyết định để chỉ đạo cấp dưới về chuyên môn, nghiệp vụ…
Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt, còn có thể gặp tình trạng các cơ quan nhà nước sử dụng thể loại văn bản không do pháp luật quy định để đặt ra quy định pháp luật, như: Ưỷ ban nhân dân ban hành thông tri,…
Vi phạm thẩm quyền về nội dung được hiểu là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền mà pháp luật trao cho. Thẩm quyền nội dung ban hành văn bản pháp luật bắt nguồn từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể từ phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực của mỗi cơ quan và người có thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Biểu hiện cụ thể về vi phạm thẩm quyền nội dung trên thực tế cũng khá đa dạng và phong phú.
Trước hết, sự vi phạm thẩm quyền nội dung thể hiện ở việc cơ quan ban hành văn bản pháp luật giải quyết công việc hoàn toàn không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc bộ như cục, vụ, viện, văn phòng… ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền nội dung còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành văn bản để giải quyết công việc vượt thẩm quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
– Văn bản pháp luật có nội dung trải với quy định của pháp luật
Có nhiều biểu hiện về nội dung của văn bản pháp luật trái với quy định pháp luật hiện hành.
Trước hết, nội dung trái quy định pháp luật hiện hành thế hiện trong việc không viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lý của văn bản đó. Ví dụ: Trong Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh A về quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, phần căn cứ pháp lý chỉ nêu Luật Tổ chức chính quyền địa phuơng mà không viện dẫn Luật Bảo vệ môi trường là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của uỷ ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực này.
Thứ hai, nội dung của văn bản pháp luật trái với quy định pháp luật hiện hành thể hiện rõ nét trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên; văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các quy phạm pháp luật hiện hành.
– Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
Hiện nay dấu hiệu này rất cần được xem xét trong quá trình xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Vì muốn thực hiện tốt các cam kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiến hành việc nội luật hoá mà còn phải rà soát nhằm phát hiện văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nào chưa phù hợp để sửa đổi, bổ sung thậm chí bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác. Kể từ khi kí kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, cũng như trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế, Việt Nam đã và đang rà soát tất cả các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực thương mại và các lĩnh vực khác có liên quan để bảo đảm tính tương thích, đồng bộ trong quá trình triển khai thực hiện các cam kết quốc tế.
Như vậy, nếu văn bản quy phạm pháp luật nào chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia thì đó là lý do để cơ quan có thẩm quyền tiến hành xử lý bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban hành mới những văn bản có liên quan đến điều ước quốc tế đó.
– Văn bản pháp luật vi phạm các quy định về hình thức và thủ tục ban hành
Văn bản pháp luật có thể thức hình thức không đúng quy định của pháp luật biểu hiện thông qua sai phạm về cách trình bày trong từng đề mục như: Văn bản quy phạm pháp luật không có năm ban hành trong đề mục số, kí hiệu văn bản; viết địa danh ban hành văn bản không đúng (ví dụ; thành phố Hà Nội, ngày… tháng… năm…); trích yếu nội dung văn bản viết in nghiêng…
Văn bản pháp luật vi phạm về thủ tục ban hành hoặc không thực hiện những thủ tục là cơ sở để xác định tính họp pháp cho văn bản áp dụng pháp luật, như: không thành lập hội đồng kỉ luật trước khi ra quyết định kỉ luật công chức; không thành lập hội đồng tuyển chọn thẩm phán trước khi ra quyết định bổ nhiệm thẩm phán…
4. Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về khoa học (bất hợp lý)
– Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với thực tiễn
Đây là những văn bản mà trong đó có các quy định cao hơn hoặc thấp hơn thực hạng kinh tế – xã hội, không phù hợp với đời sống vật chất và ý thức xã hội, gây cản trở cho tiến trình phát triển. Những văn bản pháp luật (chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật) có dấu hiệu này thường không có tính khả thi, không thể biến thành hiện thực trong thực tiễn. Có thể có những văn bản chỉ một số phần thuộc nội dung văn bản không phù hợp, cũng có thể là toàn bộ văn bản không phù hợp với thực trạng kinh tế – xã hội. Sự khiếm khuyết này của văn bản quy phạm pháp luật mang tính tất yếu bởi các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh luôn luôn vận động theo quy luật khách quan, luôn tồn tại trước, là nền tảng và mang tính quyết định để văn bản pháp luật được ban hành. Sự không phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật đối với điều kiện kinh tế – xã hội có thể là chứa đựng những quy định cao hơn hoặc có thể là quy định lạc hậu hơn. Cả hai trạng thái này đều dẫn tới hậu quả là kìm hãm sự phát triển của toàn xã hội.
– Văn bản pháp luật cũng không đáp ứng yêu cầu về khoa học khi có nội dung không phù hợp với truyền thong đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Đây chính là biểu hiện của sự không phù hợp giữa pháp luật với đạo đức. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội nhưng pháp luật lại không phải là yếu tố duy nhất để điều chỉnh xã hội. Các quy phạm xã hội khác như đạo đức, tôn giáo… cũng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do vậy, để bảo đảm tính khả thi cho văn bản pháp luật, trong quá trình ban hành cũng như tổ chức việc thực hiện văn bản pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền cần thể hiện sự dung hoà mối quan hệ giữa pháp luật và các yếu tố trên. Tuy nhiên trên thực tế không phải khi nào chủ thể ban hành văn bản pháp luật cũng thực hiện có hiệu quả yêu cầu này. Vì thế, trường hợp văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với phong tục, truyền thống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc cũng dễ dàng xảy ra và làm mất đi tính khả thi của những văn bản đó. Đây cũng là một dạng khiếm khuyết của văn bản cần được chủ thể có thẩm quyền xem xét trong quá trình tiến hành xử lý văn bản pháp luật.
– Khiếm khuyết về ngôn ngữ và kĩ thuật trình bày văn bản
Kĩ thuật pháp lý là yếu tố có vai trò khá quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của từng văn bản pháp luật. Tính logic, chặt chẽ về nội dung, đúng quy tắc về ngôn ngữ, phân chia sắp xếp hợp lý chính là những yêu cầu cơ bản của kĩ thuật pháp lý. Một văn bản pháp luật khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lý có thể xảy ra các trường họp: nội dung không đầy đủ về các chủ đề được đặt ra; nội dung không tập trung, thống nhất (tản mạn, vụn vặt); nội dung không rõ ràng, thiếu mạch lạc, thiếu chính xác; việc phân chia, sắp xếp nội dung văn bản không bảo đảm tính logic chặt chẽ; sử dụng ngôn ngữ không chuẩn theo quy tắc…
5. Nguyên tắc xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết
Khi xử lý những văn bản pháp luật khiếm khuyết, cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
– Nguyên tắc khách quan, toàn diện, đúng pháp luật
Nguyên tắc này bảo đảm cho việc hạn chế tới mức thâp nhất những thiệt hại có thể xảy ra cho xã hội khi thực hiện những văn bản pháp luật khiếm khuyết.
Các văn bản trái pháp luật phải bị đình chỉ thi hành ngay và phải bị bãi bỏ, huỷ bỏ kịp thời. Đồng thời, cũng cần tiến hành ngay những biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhằm khôi phục các quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức đã bị xâm hại.
Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức và cá nhân can thiệp trái pháp luật vào quá trình xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết.
– Nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời
Những văn bản trái pháp luật phải được cơ quan, người có thẩm quyền kiểm tra văn bản thông báo ngay cho cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản để tự kiểm tra và xử lý. Tuy nhiên, do pháp luật hiện nay chưa có quy định về thời hạn này nên trên thực tế, thời hạn gửi thông báo văn bản pháp luật được thực hiện không thống nhất và nhiều khi không kịp thòi.
– Nguyên tắc chịu trách nhiệm trước Nhà nước của cơ quan, cá nhân ban hành và xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết
Cơ quan, người có thẩm quyền có lỗi trong việc ban hành văn bản pháp luật sai trái hoặc không kịp thời phát hiện và xử lý văn bản pháp luật sai trái, phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về văn bản sai trái của mình; nếu văn bản pháp luật sai trái hoặc quyết định xử lý trái pháp luật đã gây hậu quả trên thực tế thì phải chịu trách nhiệm về việc khắc phục hậu quả đó.
Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)