1. Khái quát bảo quản vật chứng
Giữ cho vật chứng nguyên vẹn như khi nó được thu thập.
Theo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự của năm 1988 và Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự của năm 2003 thì vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng.
Bộ luật tố tụng hình sự của năm 2003 quy định việc niêm phong, bảo quản vật chứng được thực hiện như sau: a) Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản gự đưa vào hồ sơ vụ án; b) Vật chứng là tiền, Vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyện trách khác; c) Đối với vật chứng không thể đưa về Cơ quan tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan tị tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lí hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản; d) Đối với Vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản, nếu không thuộc trường hợp Bộ luật có quy định khác thì cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lí, đ) Đối với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án hành
Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lí kỈ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 Bộ luật hình sự của năm 1999; trong trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 300 Bộ luật hình sự của năm 1999; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Khái niệm bảo quản vật chứng
Vật chứng là một trong những nguồn quan trọng của chứng cứ.
Theo Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Theo đó, bảo quản vật chứng là giữ cho vật chứng nguyên vẹn như khi nó được thu thập, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng.
3. Bảo quản vật chứng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Cơ sở pháp lý: Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về việc bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
– Vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
– Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định tại điểm a khoản này; vật chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người, mẫu mô, mẫu máu và các mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại cơ quan chuyên trách theo quy định của pháp luật;
– Vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
– Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại Kho bạc Nhà nước để quản lý;
– Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án;
– Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
– Trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của luật.
4. Bảo quản vật chứng trên thực tiễn
Thực tiễn việc bảo quản vật chứng như sau:
– Thực tế, việc bảo quản vật chứng là tiền
Vật chứng là tiền có thể được thu thập trong một số vụ án như: trộm cắp tài sản, nhận hối lộ, đánh bạc … Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay vẫn còn cơ quan tiến hành tố tụng mắc sai sót về bảo quản vật chứng là tiền.
– Thực tế không tiến hành giám định tiền ngay sau khi thu thập
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự của năm 2003 tại điểm b khoản 2 Điều 75 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tại điểm b khoản 1 Điều 90 có quy định rất rõ là vật chứng là tiền phải được giám định ngay sau khi thu thập. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn vụ án như: nhận hối lộ, đánh bạc … cơ quan tiến hành tố tụng không tiến hành giám định tiền để xác định tiền là thật hay giả mà chỉ lập biên thu giữ tang vật trong đó ghi nhận tổng số tiền đã tịch thu. Sai sót này dẫn đến việc bị can, bị cáo hoặc đương sự trong vụ án khiếu nại với lý do số tiền là vật chứng trong vụ án không phải là tiền của họ hoặc có sự đánh tráo tiền thật thành tiền giả…
– Bảo quản vật chứng tại cơ quan không có quyền bảo quản
Trước đây, vật chứng là tiền sẽ được cơ quan tiến hành tố tụng bảo quản tại ngân hàng. Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật thì vật chứng là tiền phải được bảo quản tại Kho bạc nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn vụ án bảo quản vật chứng là tiền tại ngân hàng. Gửi tiền là vật chứng vào tài khoản của cơ quan tiến hành tố tụng tại ngân hàng là không đúng quy định.
Trước đây Thông tư liên tịch số 03-TT-LB ngày 23 tháng 4 năm 1984 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính quy định chế độ thu giữ, bảo quản, xử lý lật chứng và tài sản tạm giữ trong các vụ án hình sự thì có quy định vật chứng là tiền mặt (kể cả ngoại tệ) phải giao ngay cho ngân hàng. Việc gửi tiền vào Ngân hàng và giao vật chứng cho các cơ quan nói trên, cơ quan điều tra thông báo cho Viện kiểm sát nhân dan và cơ quan tài chính biết.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự của năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định vật chứng là tiền phải được bảo quản tại ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước. Việc cơ quan tiến hành tố tụng gửi tiền là vật chứng vào tài khoản của cơ quan tiến hành tố tụng tại ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước là không đúng quy định vì không đảm bảo được tính nguyên vẹn, lẫn lộn của vật chứng. Thậm chí còn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố xét xử nhất là đối với vật chứng là tiền lưu dấu vết của tội phạm.
5. Khái niệm và phân loại vật chứng; bảo quản vật chứng
Khái niệm vật chứng
Vật chứng là vật được dùng làm công cụ phạm tội là những vật mà kẻ phạm tội sử dụng để tác động trực tiếp vào đổi tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: dao, súng trong các vụ án giết người, cố ý gây thương tích…
Các loại vật chứng
Vật chứng là vật được dùng làm phương tiện phạm tội là những vật tuy không được kẻ phạm tội trực tiếp tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, nhưng được sử dụng vào quá trình thực hiện tội phạm.
Một vật có thể là phương tiện phạm tội trong vụ án này, nhưng có thể được coi là công cụ phạm tội trong một vụ án khác. Chẳng hạn như, xe máy mà kẻ phạm tội sử dụng đến địa điểm để thực hiện trộm cắp tài sản được coi là phương tiện phạm tội trong vụ án trộm cắp tài sàn, nhưng nó có thể được coi là công cụ phạm tội trong vụ án cướp giật.
Vật chứng là vật mang dấu vết của tội phạm là những vật mang dấu vết đường vân (vân taỵ, vân chân), dấu vết cơ học (vết bánh xe, vết đạn), dấu vết sinh vật (máu, lông, tóc, da, chất bài tiết)… mà người phạm tội để lại hiện trường gồm: súng, dao, lưỡi lê, các công cụ khác được dùng để giết người; thang được dùng để trèo vào nhà để trộm cắp tài sản; thuốc độc để đầu độc; phương tiện liên lạc, vận tải được dùng làm phương tiện phạm tội…
Vật chứng là vật thuộc đối tượng của tội phạm là bộ phận khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Có thể nêu ví dụ những vật là đối tượng tác động cùa tội phạm được coi là vật chứng như xe máy bị trộm cắp, dây chuyền vàng bị cướp…
Những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án như: tiền bạc, tài sản có được bằng con đường phạm tội… cũng được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định là vật chứng.
Vật chứng là nguồn chứng cứ chứa đựng những thông tin phản ánh về những vấn để phải chứng minh và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết nhanh chóng, chính xác, đúng đắn vụ án hình sự. Tuy nhiên, vật chứng lại tồn tại dưới dạng vật thể, chịu sự tác động cùa nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nên dễ bị biến đổi, hư hỏng, lẫn lộn, mất mát. Vì vậy, vật chứng phải dược bảo quản theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều 90 để đảm bảo tính nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng.
Bảo quản vật chứng
Chủ thể có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại vật chứng của vụ án thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Nếu thêm, bớt, sừa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của luật.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.