Tuy nhiên, bên cạnh việc nghiêm khắc xử lý các hành vi vi phạm quy định cấm, đối với những thoả thuận hạn chế cạnh tranh tuy thuộc diện bị cấm những nếu có ảnh hưởng tích cực đến sản xuất, kinh doanh, góp phần mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trên thị trường trong nước, quốc tế và khu vực thì pháp luật cạnh tranh sẽ xem xét cho hưởng miễn trừ trong một số trường hợp, với những điều kiện nhất định dưới sự quản lý của nhà nước.
1. Quy định về các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của một nền kinh tế thị trường phát triển. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp tìm được chỗ đứng, khẳng định vị thế trên thị trường. Bởi vậy, hệ quả của cạnh tranh là kéo theo những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh trong đó có những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 gồm các nhóm hành vi sau:
1. Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
3. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
4. Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
5. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.
6. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.
7. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
8. Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
9. Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
10. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
11. Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Trong đó, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm được quy định gồm:
– Nhóm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại khoản 1, 2, 3 giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan;
– Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại khoản 4, 5, 6 giữa bất kỳ doanh nghiệp nào;
– Các thoản thuận hạn chế cạnh tranh tại khoản 7, 8, 9, 10 và 11 giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan nếu thoả thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường;
– Thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định nếu thoả thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
2. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được hưởng miễn trừ
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam nghiêm cấm những hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh đúng nghĩa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, xem xét tới khả năng gây ảnh hưởng tới thị trường hay lợi ích mà hành vi mang lại, pháp luật không cấm hết, mà có những trường hợp được xem xét hưởng miễn trừ.
Theo quy định tại Điều 14 Luật cạnh tranh 2018, phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ bao gồm 8 dạng hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 Luật cạnh tranh được xem xét miễn trừ việc bị cấm theo nguyên tắc hợp lý. Cụ thể, nếu các hành vi thoả thuận nêu trên có lợi cho người tiêu dùng và thoản mãn một trong các điều kiện sau đây sẽ được miễn trừ có thời hạn. Các điều kiện gồm có:
– Các thoả thuận mang lại tác động trong việc thúc đẩy tiền bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
– Các thoả thuận làm tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
– Giúp thúc đẩy cho việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm.
– Giúp ta ra quy chuẩn, khuôn mẫu thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan và ảnh hưởng đến giá cả cũng như các yếu tố về giá.
Cách tiếp cận này, so với quy định trong Luật cạnh tranh 2004 có phần nới lỏng hơn. Luật cạnh tranh năm 2004 lấy thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị trường từ đó xác định thoả thuận giữa các doanh nghiệp có thị phần kết hợp bao nhiêu % thì bị cấm và được hưởng miễn trừ. Theo đó, những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nếu được thực hiện bởi những doanh nghiệp mà sức mạnh thị trường yếu (thị phần kết hợp dưới 30%) thì sẽ không thể gây tác động tiêu cực đến thị trường, việc những doanh nghiệp đó thực hiện các thỏa thuận nhằm nâng cao sức mạnh của mình trên thị trường không bị cấm. Đối với những doanh nghiệp thực hiện hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà mức thị phần kết hợp trên 30%, đây là trường hợp mà những doanh nghiệp này kết hợp với nhau đã có sức mạnh thị trường tương đối có thể tác động lên thị trường. Tuy nhiên, pháp luật vẫn để các doanh nghiệp này được thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong một thời gian hợp lý và phải tuân thủ các điều kiện nhằm mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh năm 2018 không đề cập tới yếu tố thị phần, miễn là các thoả thuận đó có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng ít nhất một trong các điều kiện nêu trên, sẽ thuộc trường hợp được miễn trừ trong một thời hạn nhất định.
Tuy thời hạn miễn trừ không phải là mãi mãi nhưng nhìn chung các trường hợp được áp dụng miễn trừ đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều nhằm mục đích hướng đến người tiêu dùng và phát triển nền kinh tế nói chung. Các quy định miễn trừ này đã góp phần tạo cho doanh nghiệp có điều kiện phát huy sức mạnh, đảm bảo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu thế trên thị trường, tạo cơ hội tốt trong tận dụng các nguồn lực doanh nghiệp để phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
3. Cơ sở của việc miễn trừ đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không phải lúc nào cũng mang lại tác động xấu tới thị trường, ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế. Các quy định về miễn trừ đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận trên cả những mặt tiêu cực và mặt tích cực của hành vi. Có một số quan điểm cho rằng, cơ sở của việc miễn trừ đối với hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh là từ quan điểm về quyền tự do kinh doanh. Theo quan điểm này: “Tự do kinh doanh là quyền của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Các chủ thể tham gia thị trường có quyền chủ động trong việc liên kết, thiết lập các mối quan hệ để thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Pháp luật sẽ không can thiệp nếu sự kết hợp đó không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đang của người khác.” Theo quan điểm cá nhân, quan điểm trên đúng nhưng chưa đủ. Bởi bất kỳ vấn đề nào, cũng cần được xem xét tính hai mặt của chúng. Có thể có những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây tác động xấu tới các doanh nghiệp khác, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế thật nhưng bên cạnh đó, có không ít những thỏa thuận mặc dù bị coi là hạn chế cạnh tranh nhưng lại mang lại hiệu quả cao đối với sự phát triển kinh tế và mang lại sản phẩm, hàng hóa chất lượng tốt, giá cả phải chăng cho người tiêu dùng. Do cân nhắc lợi và hại mà những hành vi đó mang lại, pháp luật đã quy định những trường hợp được hưởng miễn trừ có thời hạn và có điều kiện đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đã được quy định từ luật cạnh tranh năm 2004 và cho tới hiện nay là Luật cạnh tranh 2018.
4. Hồ sơ hưởng miễn trừ đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
Các doanh nghiệp thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc trường hợp miễn trừ, muốn được hưởng miễn trừ phải thực hiện thủ tục xin hưởng miễn trừ theo quy định từ Điều 15 đến Điều 23 Luật cạnh tranh năm 2018. Theo đó, doanh nghiệp dự định tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm những thuộc trường hợp được miễn trừ sẽ nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ tại Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia.
Hồ sơ gồm có các giấy tờ, tài liệu sau đây:
– Đơn đề nghị hưởng miễn trừ đối với thoả thuận hành chế cạnh tranh (mẫu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia ban hành);
– Dự thảo nội dung thoả thuận giữa các bên;
– Bản sao Giấy CNĐKDN hoặc văn bản tương đương của tưng doanh nghiệp tham gia;
– Bản sao Điều lệ của hiệp hội ngành, nghề (nếu có sự tham gia của hiệp hội ngành, nghề);
– Báo cáo tài chính của từng doanh nghiệp trong 02 năm liền kề trước năm nộp hồ sơ hoặc báo cáo tài chính từ thời điểm thành lập đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với doanh nghiệp mới thành lập có xác nhận của tổ chức kiểm toán theo quy định của pháp luậ;
– Báo cáo giải trình việc đáp ứng các điều kiện được miễn trừ và chứng cứ chứng minh;
– Văn bản uỷ quyền của các bên tham gia thoả thuận cho bên đại diện (nếu có).
Hồ sơ được thụ lý kể từ thời điểm các bên hoàn thành nghĩa vụ nộp phí thẩm định hồ sơ.
5. Quy trình giải quyết hồ sơ hưởng miễn trừ đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Thẩm quyền ra quyết định cho việc hưởng miễn trừ đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm: Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia.
Thời hạn ra quyết định: 60 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ, trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá 30 ngày. Việc gia hạn phải được báo bằng văn bản cho bên nộp hồ sơ chậm nhất là 03 ngày làm việc trước khi hết thời hạn 60 ngày nêu trên.
Thời hạn hưởng miễn trừ: Không quá 05 năm kể từ ngày ra quyết định
Quy trình giải quyết:
– Doanh nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm nộp hồ sơ theo quy định nêu trên tới Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia và nộp phí thẩm định hồ sơ theo quy định.
– Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia tiếp nhận hồ sơ và thông báo cho doanh nghiệp về tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từngày nhận hồ sơ.
Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia có trách nhiệm thông báo bằng văn bản các nội dung cụ thể cần sửa đổi, bổ sung để các bên sửa đổi, bổ sung hồ sơ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra thông báo.
Khi kết thúc thời hạn mà bên được yêu cầu không sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung hồ sơ không đầy đủ theo yêu cầu thì Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia trả lại hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ.
Nếu nhận được thông báo hồ sơ hợp lệ, đầy đủ, bên nộp hồ sơ phải nộp phí thẩm định theo quy định.
– Uỷ ban Cạnh tranh Quốc giathụ lý hồ sơ sau khi doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ nộp lệ phí thẩm định;
Trong quá trình thụ lý, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia có thể yêu cầu bên nộp bổ sung thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đang đề nghị hưởng miễn trừ
Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia có quyền tham vấn ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về nội dung thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đang đề nghị hưởng miễn trừ.
– Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia ra quyết định về việc hưởng miễn trừ
Luật LVN Group (tổng hợp)