1. Tranh chấp chủ quyền giữa 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

1.1. Quần đảo Hoàng Sa

Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào năm 1932, chính quyền Pháp ở Đông Dương chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, và Việt Nam tiếp tục nắm giữ chủ quyền cho đến năm 1974 (Việt Nam Cộng hòa). Hai đảo Phú Lâm và Linh Côn do Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1956.
Trung Quốc hiện đang kiêm soát toàn bộ Hoàng Sa kể từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974,
 và chiếm đóng một phần của Trường Sa từ sau ngày 14 tháng 3 năm 1988 sau khi bắn chìm 3 tàu, làm 64 quân nhân Hải quân Việt Nam thiệt mạng trong trận Hải chiến Trường Sa.
Tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết để thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, bất chấp tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với quần đảo này từ phía Việt Nam. Tháng 11 năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc lại phê chuẩn việc lập thành phố Tam Sa, nhằm trực tiếp quản lý các quần đảo trên Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa mà nước này gọi là Tây Sa và Nam Sa.
Năm 2007, đã có vài cuộc biểu tình diễn ra ở Việt Nam để phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa cũng như thành lập thành phố Tam Sa.

1.2. Quần đảo Trường Sa

Trung Quốc xây dựng những công trình lớn như khu tổ hợp, đường băng, hệ thống ra đa, hải đăng. Ngoài Trung Quốc, Đài Loan cũng tham gia xây dựng hải đăng.
 
Ngày 30/3/2020, Việt Nam gửi LHQ Công hàm khẳng định chủ quyền của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, phản bác các lập luận vô lý của Trung Quốc tại biển Đông. Ngày 17/4/2020, Trung Quốc gửi LHQ Công hàm đáp trả Công hàm của Việt Nam, trong đó có những lời lẽ hàm ý đe dọa sử dụng vũ lực. “Cuộc chiến công hàm” là một phần trong “Tam chủng Chiến Pháp” (Three Warfare Doctrine) của Trung Quốc, gồm tâm lý, pháp lý, tuyên truyền.
Công hàm của Việt Nam gửi LHQ ngày 30/3/2020 nhằm (1) phản biện các yêu sách của Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, (2) khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, (3) khẳng định Luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất quy định phạm vi vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Nam và Campuchia là 2 quốc gia nằm tiếp liền và cùng có bờ biển bao bọc vịnh Thái Lan, có vấn đề trong việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Ngày 7-7-1982, 2 nước ký thỏa thuận về vùng nước lịch sử, theo đó vùng nước lịch sử giữa 2 nước sẽ được đặt dưới chế độ nội thủy và hai bên thống nhất lấy đường Brevie là đường phân chia chủ quyền đảo trong khu vực.
Hai bên cũng thống nhất sẽ hoạch định đường biên giới trên biển giữa 2 nước vào thời điểm thích hợp.
Giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng biển chồng lấn trong khu vực vịnh Thái Lan rộng khoảng 2.800 km2 được hình thành bởi yêu sách của Việt Nam năm 1971 và Malaysia năm 1979.
Trên cơ sở thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao 2 nước, năm 1992 hai bên đã đàm phán giải quyết vấn đề vùng biển chồng lấn và ngay tại vòng họp đầu tiên 2 bên đã đạt được thỏa thuận sẽ khai thác chung dầu khí một phần của khu vực chồng lấn giữa 2 nước.
Theo Thỏa thuận về khai thác chung giữa 2 nước ký ngày 5-6-1992, 2 nước chỉ định 2 công ty dầu khí quốc gia là Petrovietnam và Petronas đàm phán Thỏa thuận thương mại về khai thác chung dầu khí trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. 
Ngày 29-7-1997, dòng dầu đầu tiên thuộc khu vực khai thác chung giữa 2 nước đã được khai thác thương mại.
Hiện tại hoạt động khai thác chung dầu khí trong vùng chồng lấn giữa 2 nước đang được triển khai hết sức thành công, góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như tăng cường quan hệ giữa 2 nước.

2. Đàm phán phân định vùng chồng lấn giữa Việt nam và Indonesia.

Indonesia là quốc gia láng giềng có quy chế quốc gia quần đảo nằm đối diện với bờ biển phía Đông Nam Việt Nam. 
Khi xác định phạm vi thềm lục địa và vùng đặc quyền về kinh tế, giữa hai quốc gia có vấn đề hoạch định ranh giới chung vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa chồng lấn. Hai nước đã tiến hành đàm phán để giải quyết: Giữa Việt Nam và Indonesia có vùng thềm lục địa chồng lấn được hình thành trên yêu sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa năm 1971 và Indonesia năm 1968 với diện tích khoảng gần 40.000 km2 nằm ở phía Đông Nam Biển Đông. 
Năm 1972 chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đàm phán với phía Indonesia nhưng 2 bên không đạt được giải pháp nào.
Bờ biển lục địa Việt Nam và bờ biển Kalimantan, Indonesia, cách nhau khoảng 474 hải lý, khoảng cách gần nhất giữa các đảo của hai bên là 246 hải lý. Gần đảo Natuna Bắc của Indonesia có một rãnh sâu khoảng 80 mét đến l00 mét.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 về việc xác định phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, hai nước có một vùng biển, thềm lục địa chồng lấn cần phân định.
Năm 1969, Indonesia tuyên bố giới hạn thềm lục địa của mình dựa theo nguyên tắc đường trung tuyến tính từ đường cơ sở quần đảo Indonesia và đường cơ sở của các quốc gia hữu quan. 
Năm 1971 chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã vạch ranh giới đặc nhượng dầu khí trên thềm lục địa của mình, dựa theo trung tuyến tính từ bờ biển Việt Nam và bờ biển đảo Bornéo, Indonesia. 
Năm 1972 , Indonesia và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành đàm phán phân định vùng biển chồng lấn có diện tích khoảng 40.000km2, được hình thành bởi hai đường trung tuyến: trung tuyến đảo – đảo và trung tuyến bờ – bờ. 
Tháng 6/1978, Việt Nam và Indonesia nối lại đàm phân định vùng chồng lấn rộng khoảng 98.000 km2, được hình thành bởi đường ranh giới tự nhiên (rãnh sâu) và trung tuyến đảo – đảo. 
Sau đó, Việt Nam đã đề xuất đường phân định mới, “đường dung hòa”, nằm giữa đường rãnh ngầm và đường trung tuyến bờ – bờ, thu hẹp vùng chồng lấn xuống còn 40.000 km2.
Qua 10 vòng đàm phán cấp chuyên viên, vùng chồng lấn đã được thu hẹp lại còn khoảng 4.500 km2.
Trải qua 2 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 10 vòng đàm phán cấp chuyên viên, 12 vòng đàm phán không chính thức, 4 cuộc trao đổi hẹp cấp Trưởng đoàn chuyên viên và 1 vòng đàm phán về kỹ thuật hải đồ, ngày 26-6-2003, hai bên đã ký kết Hiệp định phân định thềm lục địa. 
Hiệp định này có hiệu lực ngày 29-5-2006.  
Hiệp định gồm có 6 điều chứa đựng nội dung liên quan đến vị trí đường phân định, tính chất của đường phân định, về bảo vệ môi trường biển, về cách thức xử lý các cấu tạo mỏ dầu khí hoặc mỏ khoáng sản nằm vắt ngang qua đường phân định, cách thức giải quyết hòa bình tranh chấp thông qua hiệp thương hoặc đàm phán.  
Đường phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia được xác định bằng các đoạn thẳng nối tuần tự các điểm 20 – H–H1–A4–X1–25.
Tọa độ của các điểm này là tọa độ địa lý được tính toán trên Hệ tọa độ trắc địa thế giới năm 1984 (WGS 84) và được thể hiện trên mảnh Hải đồ số 3482, tỷ lệ 1:1.500.000 do Hải quân Hoàng gia Anh xuất bản năm 1997, là Phụ lục được đính kèm Hiệp định. 
Hai bên xác định Hiệp định phân định thềm lục địa sẽ không ảnh hưởng đến bất kỳ hiệp định nào được ký trong tương lai giữa các bên ký kết về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế.
Các bên ký kết sẽ tham khảo ý kiến của nhau nhằm phối hợp chính sách của mình phù hợp với luật pháp quốc tế về bảo vệ môi trường biển. 
Trong trường hợp có một cấu tạo mỏ dầu hoặc khí tự nhiên, hoặc mỏ khoáng sản khác dưới đáy biển nằm vắt ngang đường ranh giới, các bên ký kết sẽ thông báo cho nhau mọi thông tin liên quan và thỏa thuận về việc phân chia công bằng lợi ích thu được từ việc khai thác đó. 
Mọi tranh chấp giữa các bên ký kết nảy sinh trong việc giải thích hoặc thực hiện Hiệp định này sẽ được giải quyết một cách hòa bình thông qua hiệp thương hoặc đàm phán. 
Hiệp định đã phân định rõ ràng phạm vi vùng thềm lục địa của hai nước; đề ra cách giải quyết khi xảy ra trường hợp hai bên chung nhau các mỏ nằm trên đường ranh giới thềm lục địa giữa hai nước. 
Việc ký Hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, phục vụ cho sự phát triển kinh tế bền vững của mỗi nước. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, hai bên có thể tiến hành triển khai các hợp đồng dầu khí đã ký với các nhà thầu nước ngoài. 
Việc ký Hiệp định cũng góp phần củng cố hơn nữa tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai Chính phủ và nhân dân hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác nhiều mặt giữa hai nước.  

3. Đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

Là một trong những vịnh lớn của thế giới, Vịnh Bắc Bộ có diện tích khoảng 126.250km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa vịnh rộng khoảng 207,4km (112 hải lý)(17). Bờ biển Vịnh Bắc Bộ thuộc phía Việt Nam dài khoảng 763km và thuộc Trung Quốc dài 695km. Vịnh Bắc Bộ có hai cửa, gồm: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng 35,2km (19 hải lý); cửa chính của Vịnh kéo dài từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 207,4km (112 hải lý). Phần vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110km, cách đảo Hải Nam Trung Quốc khoảng 130km. Phía Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc của vịnh, như đảo Vị Châu, Tà Dương.
 
Đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc được khởi động từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, song qua một số vòng đàm phán diễn ra vào các năm 1974 và 1977 – 1978, hai bên chưa đạt được kết quả nào và bối cảnh quan hệ giữa hai nước sau đó không thuận lợi cho việc hai bên tiến hành giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, hai nước đều có nhu cầu tiến hành đàm phán để phân định Vịnh Bắc Bộ nhằm đạt mục tiêu cơ bản và lâu dài là xác định đường phân giới rạch ròi, phân chia vùng biển(18).
 
Sau hơn bảy năm đàm phán thực chất, ngày 25-12-2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, theo đó về diện tích tổng thể, Việt Nam đạt 53,23% diện tích Vịnh, Trung Quốc đạt 46,77%(19), đường phân định cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, đảo Cồn Cỏ được hưởng 50% hiệu lực. Cùng với Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, Việt Nam và Trung Quốc cũng ký kết Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định này mới hết hạn vào ngày 30-6-2020, sau khi đã kết thúc 15 năm thời hạn và một năm gia hạn. 

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến bài viết Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật  trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực pháp luật  luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật  – Công ty luật LVN Group