1. Tranh chấp thương mại 

1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại

1.1.1 Tranh chấp thương mại là gì?

Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.

1.1.2 Đặc điểm của tranh chấp thương mại 

Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể, có thể kể đến như:

  • Mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; cho thuê, cho thuê mua; xây dựng; vận chuyển hàng hóa, mua bán trái phiếu, cổ phiếu; đầu tư tài chính, ngân hàng.
  • Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
  • Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.

Thứ hai, mâu thuẫn phát sinh từ hoạt động thương mại, do hành vi vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương mại làm thiệt hại đến lợi ích của bên còn lại.

Thứ ba, tranh chấp thương mại chủ yếu là tranh chấp các thương nhân. Ngoài ra các cá nhân, tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch, bên không có mục đích sinh lợi chọn áp luật thương mại. 

1.1.3 Phân loại các tranh chấp thương mại 

Tranh chấp thương mại được chia thành các loại sau:

  • Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ: tranh chấp thương mại trong nước và tranh chấp thương mại quốc tế.
  • Căn cứ vào số lượng cho bên tranh chấp: tranh chấp thương mại hai bên và tranh chấp thương mại nhiều bên.
  • Căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp: tranh chấp liên quan đến hợp đồng, tranh chấp về sở hữu trí tuệ, đầu tư,…
  • Căn cứ vào quá trình thực hiện: tranh chấp trong quá trình đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng và tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
  • Căn cứ vào thời điểm phát sinh tranh chấp: tranh chấp thương mại hiện tại và trong tương lai.

1.2 Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại 

1.2.1 Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại

Hiện nay, theo quy định của pháp luật, có tất cả 4 phương thức giải quyết tranh chấp, đó là: Thương lượng, Hòa giải, Tòa án hoặc Trọng tài.

  • Thương lượng: là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào.
  • Hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ thanh chấp đã phát sinh.
  • Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án: là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước được tòa án thực hiện theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
  • Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết thông qua hoạt động của Trọng tài viên với kết quả cuối cùng là phán quyết trọng tài buộc các bên trọng và thực hiện.

1.2.2 Đặc điểm của từng phương thức giải quyết tranh chấp 

* Phương thức thương lượng

  • Được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để giải quyết những bất đồng mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba.
  • Quá trình thương lượng giữa các bên không chịu sự ràng buộc của quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết.
  • Với phương thức này, việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.

* Phương thức hòa giải 

  • Có sự tham gia của bên thứ ba trong vai trò làm trung gian để tìm kiếm giải pháp giải quyết tranh chấp;
  • Quá trình hòa giải các bên tranh chấp không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải.
  • Giống phương thức thương lượng, kết quả hòa giải thành được thực thi hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.

* Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án

  • Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết tòa án.
  • Phán quyết của tòa án bằng bản án, quyết định nhân danh nhà nước và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh quyền lực nhà nước.
  • Việc giải quyết theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ thông qua hai cấp xét xử.

* Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

  • Được tiến hành khi có yêu cầu của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
  • Chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại là các trọng tài viên.
  • Là phương thức đảm bảo quyền tự định đoạt cao nhất của các bên khi mà các bên tranh chấp có thể thống nhất, thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài, trọng tài viên, địa điểm giải quyết, luật áp dụng.
  • Hoạt động giải quyết không được công khai, đảm bảo tính bí mật.

1.3 Chế tài trong thương mại 

1.3.1 Khái niệm 

Chế tài thương mại là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, xác định những hậu quả pháp lý bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng.

Hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại có thể là không thực hiện hợp đồng, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên trong họp đồng thương mại hoặc theo quy định của pháp luật.

1.3.2 Đặc điểm 

Chế tài thương mại luôn mang tính cưỡng chế nhà nước đối với người vi phạm pháp luật thương mại.

Chế tài này được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật. Là hình thức trách nhiệm trong quan hệ hợp đồng trong thương mại đối với bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Thực hiện chức năng tác động về tài sản đối với bên vi phạm, có nghĩa bên vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Thực hiện chức năng tác động về tài sản đối với bên vi phạm, có nghĩa bên vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản khi có hành vi vi phạm hợp đồng.

1.3.3 Căn cứ áp dụng 

Theo quy định của pháp luật, các chế tài thương mại được áp dụng khi mà một bên trong quan hệ hợp đồng thương mại thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Đó có thể là những hành vi mà pháp luật quy định hoặc những hành vi mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng.

1.3.4 Các trường hợp không áp dụng chế tài thương mại 

Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

  • Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận
  • Xảy ra sự kiện bất khả kháng
  • Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
  • Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng
  • Bên vi phạm hợp đồng sẽ có nghĩa vụ chứng minh trong các trường hợp trên.

1.3.5 Các loại chế tài trong thương mại 

Các loại chế tài trong thương mại được quy định tại Điều 292 Luật Thương mại 2005, bao gồm:

  • Buộc thực hiện đúng hợp đồng
  • Phạt vi phạm 
  • Buộc bồi thường thiệt hại
  • Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
  • Đình chỉ thực hiện hợp đồng
  • Hủy bỏ hợp đồng
  • Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

2. Ví dụ về một số vụ việc tranh chấp thương mại 

1. Quyết định 16/2019/QĐKDTM – ST ngày 27/11/2019 Tòa án TP. Đà Nẵng

V/v Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài

Nội dung vụ án: Công ty U (Người yêu cầu) tại Philippines và Công ty thép D (có trụ sở tại Việt Nam) ký hợp đồng mua bán 6000 tấn thép ngày 12/06/2017 với giá trị hợp đồng 2.430.000.000 USD. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Thép D không giao hàng theo đúng số lượng, thời hạn ghi trong Hợp đồng mua bán. Công ty U đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc (ICC). ICC đã ra phán quyết yêu cầu Công ty Thép D bồi thường các thiệt hại mà Công ty D yêu cầu.

Nay Công ty U yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Tòa án Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC).

Nhận định của Tòa án: Xét nội dung phán quyết phù hợp với pháp luật nội dung của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhận định này là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 34 và khoản 1 Điều 37 Luật Thương mại. Phán quyết buộc Công ty D phải bồi thường thiệt hại do hành vi không thực hiện hợp đồng, giá trị bồi thường bằng giá trị khắc phục thiệt hại bằng phương thức mua bù đắp hàng hóa tương tự, với khối lượng nhỏ hơn, giá thành gần tương đương là phù hợp với khoản 2 Điều 41, 300, 301 và 302 Luật Thương mại.

Quyết định: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết Hồ sơ vụ kiện số 23329/PTA/ASB/HTG ngày 19/10/2018 và Phụ lục của Phán quyết 23329/PTA/ASB/HTG ngày 11/12/2018 của Tòa án Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC) về việc giải quyết tranh chấp Hợp đồng mua bán phôi thép cao cấp số: DNY-UNI-12.06.2017 ngày 12/6/2017 được ký kết giữa Công ty U, địa chỉ: Punturin, Thành phố Valenzuela, Philippines với Công ty Cổ phần Thép D, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam.

2. Bản án số: 52/2019/KDTMPT ngày 11 tháng 9 năm 2019 của Tòa án Cao cấp TP.HCM

V/v Tranh chấp vê quyền sở hữu doanh nghiệp và sở hữu dự án theo hợp đồng liên doanh

Nội dung vụ án: Công ty cổ phần Phát triển và Kinh doanh N (gọi tắt là HDT) cùng 2 công ty nước ngoài là Công ty P&D và Công ty LVC ký hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH Quy hoạch và Phát triển Nhà Việt Nam – Hàn Quốc (gọi tắt là VK H) để thực hiện dự án là Khu nhà ở cao tầng The Mark. Ngày 30/08/2007 UBND TP. Hà Nội cấp giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) về việc thành lập Công ty VK H. Dự án chưa được thực hiện thì P&D và LVC bị Tòa án Hàn Quốc tuyên bố phá sản. Quản tài viên được Tòa án Hàn Quốc chỉ định đã nhân danh Công ty P&D và Công ty LVC, chuyển nhượng toàn bộ vốn của 2 công ty trong Công ty VK H cho Công ty DWS. Cho rằng việc chuyển nhượng phần vốn góp của P&D và LVC cho DWS đã vi phạm thỏa thuận của các bên tại hợp đồng liên doanh và quy định của Luật Doanh nghiệp về quyền ưu tiên mua của HDT. Bản án tại Hàn Quốc chưa được Tòa án Việt Nam công nhận và thi hành nên Công ty HDT khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố chấm dứt hợp đồng liên doanh ngày 10/3/2007 giữa nguyên đơn với P&D và LVC về việc thành lập VK H đồng thời yêu cầu Tòa án buộc P&D và LVC mỗi công ty phải thanh toán cho nguyên đơn 1.000.000 USD tiền phạt với lý do đã vi phạm hợp đồng liên doanh ngày 10/03/2017. Hủy GCNĐT được cấp lần 2 có sự tham gia của Công ty DWS. 

Bản án Sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty HDT về việc yêu cầu Tòa án không được công nhận các hợp đồng chuyển nhượng vốn góp tại Công ty VK H cho DWS. Hủy bỏ các quyết định hành chính liên quan tới thay đổi quyền sở hữu góp vốn tại VK H. 

Bản án trên bị Công ty VK H và Công ty DWS kháng cáo.

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Công ty P&D và Công ty LVC bị tuyên bố phá sản, chuyển nhượng vốn góp nhưng không yêu cầu Công ty VK H mua lại phần vốn góp và cũng không chào bán cho thành viên còn lại là HDT, vi phạm Điều lệ VK.Housing và Luật Doanh nghiệp, là không đủ điều kiện để chuyển nhượng vốn góp cho người không phải là thành viên là DWS. Do không đủ điều kiện, không có quyền chuyển nên hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 16/3/2016 giữa Công ty P&D với DWS và giữa Công ty LVC với DWS là hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Luật Dân sự 2005 nay là Điều 123 Bộ luật dân sự 2015.

Quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty HDT về việc yêu cầu Toà án không công nhận các hợp đồng chuyển nhượng vốn góp tại Công ty VK H cho DWS. Hủy bỏ các quyết định hành chính liên quan tới thay đổi quyền sở hữu vốn góp tại VK H.

3. Quyết định số 05/2017/QĐKDTM – ST ngày 21/07/2-17 Tòa án TP. Hà Nội

V/v Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài

Nội dung vụ án: Công ty GI (bên được thi hành) và Công ty CP T đã ký hợp đồng về việc mua bán than cốc Úc, Bên được thi hành nhất trí bán và Bên phải thi hành nhất trí mua và nhận bàn giao 50.000 tấn than cốc Oaky Creek của Úc, +/- 10% sai số do vận chuyển. Do Công ty CP T đã vi phạm hợp đồng khi không đảm bảo mở Thư tín dụng như yêu cầu trong Hợp đồng. Theo đó, đã thoái thác, từ chối nhận nợ và thanh toán cho hàng hóa được bán theo Hợp đồng nên Công ty GI đã đưa ra tranh chấp ra SIAC giải quyết. Hội đồng trọng tài đã quyết định Bên phải thi hành phải chịu trách nhiệm về tất cả thiệt hại và mất mát xảy ra do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng.

Nay Công ty GI yêu cầu Tòa án Việt nam công nhận và cho thi hành Phán quyết trọng tài của SIAC.

Nhận định của Tòa án: Thủ tục giải quyết tranh chấp vụ kiện của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore là đúng với Quy tắc SIAC. Đồng thời Quyết định của Phán quyết một phần số 060 năm 2016 ngày 16/05/2016 và Phán quyết cuối cùng số 101 năm 2016 ngày 31/08/2018 không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Do đó, Hội đồng phiên họp có căn cứ để công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài quốc tế Singapore.

Quyết định: Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết một phần số 060 năm 2016 ngày 16/05/2016 và Phán quyết cuối cùng số 101 năm 2016 ngày 31/08/2018 của Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) tại Việt Nam. 

4. Bản án số 27/2017/KDTM-PT ngày 21 tháng 7 năm 2017

V/v Tranh chấp hợp đồng đầu tư và hợp đồng kinh tế 

Nội dung vụ án: Công ty LRIL là công ty tại Anh (nguyên đơn) và Công ty CP VLL (Bị đơn) ký Hợp đồng kinh tế ngày 27-08-2008, về việc hợp tác thành lập một liên doanh là để đầu tư và xây dựng khu đô thị mới NTP. Vốn của liên doanh là 1.344.000.000.000 đồng, trong đó LRIL sẽ góp 1.008.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 75% vốn điều lệ; Công ty CP VLA sẽ góp 336.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 25% vốn điều lệ. Ngày 25-09-2008, LRIL và Công ty CP VLA (gọi tắt là Công ty VLA) ký Hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH NLQ1 (gọi tắt là NLQ1). Căn cứ thỏa thuận, Công ty VLL đã chuyển 255.744.000.000 đồng cho bị đơn để tiến hành bồi thường, giải phóng mặt bằng, do Bị đơn không hoàn thành nghĩa vụ thu xếp để có được chấp thuận quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 của các cơ quan hữu quan ở Việt Nam. Do đó, nguyên đơn và Công ty VLL không xác định được diện tích mất mà bị đơn đã bồi thường, giải phóng mặt bằng. Sau đó dự án này đã bị UBND TP.HCM thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. Do vậy nguyên đơn đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bị thanh toán số tiền Nguyên đơn đã góp theo Hợp đồng nêu trên.

Bản án Sở thẩm tuyên: Ghi nhận thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng kinh tế ngày 27-08-2008 và Hợp đồng liên doanh ngày 25-09-2008 ký giữa LRIL và Công ty CP VLA. Ghi nhận thiện chí của Công ty CP VLA có trách nhiệm chuyển trả số tiền 255.744.000.000 đồng (hai trăm năm mươi năm tỷ bảy trăm bốn mươi bốn triệu đồng) cho LRIL.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn: LRIL phải trả cho Công ty tiền phạt vi phạm do không thực hiện một phần hợp đồng là 15.045.120.000 đồng.

Công ty LRIL kháng cáo án sơ thẩm

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Xét nội dung của L về thời hạn chuyển trả tiền thì thấy: Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện cho L không cho thỏa thuận hay cam kết gì với Công ty VLA về thời hạn thanh toán số tiền nợ trên. Tòa án cấp sơ thẩm ấn định thời hạn để Công ty VLA trả cho L “… khi dự án đầu tư, xây dựng, phát triển, khai thác bán, cho thuê khu dân cư nhà ở…. được đền bù xong và đưa vào kinh doanh thì Công ty VLA ưu tiên trả cho L trước.” Tuyên như án sơ thẩm là trái với ý chí của L vì L không có thỏa thuận nội dung. Mặt khác, tuyên như vậy không phù hợp với Luật Thi hành án dân sự vì trong quá trình thi hành án các bên có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án. Tòa án không có quyền tuyên thời 15 gian và điều kiện để thi hành án nếu hai bên không có thỏa thuận. Do đó, chấp nhận yêu cầu của L về nội dung này.

Quyết định:

1/ Ghi nhận sự thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt thực hiện hợp đồng kinh tế ngày 27/08/2008 và hợp đồng liên doanh ngày 25/09/2009 ký giữa LRIL và Công ty CP VLA.

2/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Buộc Công ty CP VLA có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền 255.744.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi lăm tỷ bảy trăm bốn mươi bốn triệu đồng) cho LRIL.

3/ Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi Công ty CP VLA trả lãi tiền phạt chậm thanh toán số tiền 1.854.144.000 đồng.

5. Bản án 84/2017/KDTM-PT ngày 30/03/2017 của Tòa án Cấp cao Hà Nội

V/v về Phán quyết Trọng tài thương mại 

Nội dung vụ án: Công ty N tại Việt Nam và Công ty G tại Anh có ký kết 03 Hợp đồng mua bán hàng hóa. Công ty N cho rằng hợp đồng thứ nhất số 669229 không tồn tại do không có chữ ký của Công ty N, hợp đồng thứ 2 do công ty G không hợp tác nên Công ty N không mở được L/C nên không thể thực hiện. Trọng tài Hiệp hội B quốc tế đã gửi các thông báo, văn bản sai địa chỉ nên Công ty N không nhận được bất cứ tài liệu nào. Hội đồng Trọng tài Hiệp hội B Quốc tế đã giải quyết tranh chấp và có phán quyết đồng ý với yêu cầu của Công ty G, yêu cầu Công ty N thanh toán 1.554.439,29 USD bao gồm nợ gốc và lãi của 3 hợp đồng.

Tại quyết định thương mại Sơ thẩm số 01/2016/QĐKDTM-ST: Không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định ngày 12/08/2013 của Hội đồng trọng tài Hiệp hội B quốc tế giải quyết vụ tranh chấp các hợp đồng mua bán bông của công ty G với công ty N.

Công ty G có đơn kháng cáo

Nhận định của Tòa án Phúc thẩm: Công ty N không ký vào hợp đồng này nên thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng này không có giá trị pháp lý đối với Công ty N. Thỏa thuận này không đảm bảo sự tự nguyện về ý chí và không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nên không có căn cứ buộc Công ty N phải thi hành quyết định của Trọng tài Hiệp hội B quốc tế đối với hợp đồng này. Các tài liệu công ty G cung cấp là bản sao và chỉ có bưu phẩm gửi ngày 13/08/2013 là có người nhận tên Sơn còn lại 7 bưu phẩm khác không có tên người nhận. Theo danh sách người đóng bảo hiểm của Công ty N do bên yêu cầu thu nhập và xuất trình (tài liệu phô tô, không xác nhận của cơ quan) tại phiên họp phúc thẩm thì tại thời điểm năm 2012 và 2013, Công ty N có 2 người tên là S, một người là nhân viên bảo vệ và một người là công nhận. Vì vậy, trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại các phiên họp sơ thẩm và phúc thẩm, phía công ty N đều khẳng định không nhận được các văn bản tố tụng của Hiệp hội B quốc tế là có căn cứ.

Quyết định: Không chấp nhận Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam Phán quyết trọng tài ngày 12/08/2013 của Hội đồng trọng tài – Hiệp hội B quốc tế về giải quyết tranh chấp các hợp đồng mua bán bông giữa Công ty G.

Trên đây là tổng hợp của Luật LVN Group về một số vụ việc tranh chấp thương mại tại Việt Nam và quốc tế tiêu biểu. Hi vọng bài viết đã cung cấp tới quý bạn đọc những thông tin hữu ích! Trân trọng cảm ơn!