1. Chánh sứ là gì?

Chánh sứ là chức danh của người được nhà vua lựa chọn, chỉ định dẫn đầu đoàn sứ bộ Việt Nam dưới thời phong kiến, có quyền thay mặt vua tiến hành các hoạt động bang giao với các nước khác trong thời gian đi sứ.

Chánh sứ thường là người có hiểu biết rộng, có tài ứng đối và trung thành với vua. Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, với những lần đi sứ Trung Quốc thì Mạc Đĩnh Chỉ là người thường được nhắc đến. Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1280 và mất năm 1350, đỗ trạng nguyên năm 1304, làm quan dưới 3 triểu vua nhà Trần (triều vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiển Tông) được phong đến chức thượng thư. Mạc Đĩnh Chỉ hai lần được các vua Trần cử đi sứ triều đình nhà Nguyên, do ứng đối và biện luận giỏi, ông được triều đình nhà Nguyên kính nể và phong là “lưỡng quốc trạng nguyên”.

2. Chánh sứ của Đại Việt sang Trung Quốc qua các thời kì

Năm

Sứ bộ

Mục đích đi sứ

Hiệu đề trên đồ sứ
tương ứng năm đi sứ

Ghi chú

Nhâm tuất

(1802)

Chánh sứ (CS):Trịnh Hoài Đức

Phó sứ (PS): Ngô Nhân Tĩnh, Huỳnh Ngọc Uẩn

Mang ấn vàng và sắc phong mà nhà Thanh phong cho triều Tây Sơn sang trả; báo tin Nguyễn Ánh chiến thắng Tây Sơn, lập triều đại mới và giao nộp cho nhà Thanh 3 tên cướp biển người Tàu là Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh và Lương Văn Tài. Chưa tìm thấy hiện vật Năm này có hai sứ bộ sang Trung Hoa
CS: Lê Quang Định

PS: Lê Chính Lộ, Nguyễn Gia Cát

Xin phong vương cho vua Gia Long và xin đổi tên nước ta thành Nam Việt. Vua Gia Khánh nhà Thanh chuẩn cho tên nước ta là Việt Nam. Sứ bộ này về nước vào tháng chạp năm Gia Long thứ 2 (tháng 1/1804)
Giáp tí (1804) CS: Lê Bá Phẩm

PS: Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đăng Đệ

Đi tạ ân việc nhà Thanh cử Tề Bố Sâm sang phong vương cho vua Gia Long trước đó. (Tề Bố Sâm sang đến Thăng Long vào khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3/1804). Sứ bộ này cũng mang lễ vật đi cống Thanh triều, thay cho đợt tuế cống năm 1803 và năm 1805. – Giáp tí niên chế (có hình vuông kép bao quanh)

– Giáp tí (có hình vuông kép bao quanh)

– Giáp tí (có vòng tròn kép bao quanh)

– Giáp tí niên chế

– Giáp tí

Đinh mão

(1807)

CS: Vũ Trinh

PS: Ngô Nhân Tĩnh

Đi tuế cống – Mậu thìn niên chế Sứ bộ này về nước năm Mậu thìn (1808)
Kỷ tị

(1809)

CS:Nguyễn Hữu Thận

PS: Ngô (Thì) Vị, Lê Đắc Tần

Đi tuế cống theo lệ – Kỷ tị niên chế

– Canh ngọ niên chế

Năm này có hai sứ bộ sang Trung Hoa

Sứ bộ Nguyễn Hữu Thận về nước năm Canh ngọ (1810)

CS: Vũ Trinh

PS: Nguyễn Đình Chất, Nguyễn Văn Thịnh

Đi mừng lễ Ngũ tuần Đại khánh của vua Gia Khánh
Quý dậu

(1813)

CS: Nguyễn Du

PS: Trần Văn Đại, Nguyễn Văn Phong

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Đinh sửu

(1817)

CS: Hồ Công Thuận

PS: Nguyễn Huy Trinh, Phan Huy Thực

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Kỷ mão

1819

CS: Nguyễn Xuân Tình

PS: Đinh Phiên, Nguyễn Hựu Bổng

Đi mừng lễ Lục tuần Đại khánh của vua Gia Khánh – Kỷ mão niên chế

– Kỷ mão ngự chế

– Kỷ mão

Canh thìn

1820

CS: Ngô (Thì) Vị,

PS: Trần Bá Kiên, Hoàng Văn Thịnh

Đi báo tang vua Gia Long và xin phong vương cho vua Minh Mạng – Canh thìn niên chế

– Canh thìn

Sứ bộ này do Nguyễn Du làm CS nhưng chưa lên đường thì Nguyễn Du mất, Ngô (Thì) Vị được cử thay thế
Quý mùi

(1823)

CS: Nhữ Bá Sĩ Chỉ đi đến Quảng Đông, chưa rõ mục đích – Giáp thân niên chế Sứ bộ này về nước năm Giáp thân (1824)
Ất dậu

(1825)

CS: Hoàng Kim Hoán

PS: Phan Huy Chú, Trần Chấn

Đi tạ ân việc Thanh triều cử Tổng đốc Quảng Tây là Phan Cung Thân sang phong vương cho vua Minh Mạng năm 1821. – Ất dậu

– Ất dậu niên tạo

– Ất dậu niên chế

– Bính tuất

– Bính tuất niên chế

Năm này có 2 sứ bộ đi sứ. Cả hai sứ bộ này đều lên đường vào tháng 10 năm Giáp thân (1824) và về nước vào năm Bính tuất (1826)
CS: Hoàng Văn Quyền

PS: Nguyễn Trọng Vũ, Nguyễn Hựu Nhân

Đi tuế cống theo lệ
Đinh hợi

(1827)

CS: Phan Thế Trung Chưa rõ mục đích – Đinh hợi niên chế

– Mậu tí niên chế

Sứ bộ này về nước năm Mậu tí (1828)
Kỷ sửu

(1829)

CS: Nguyễn Trọng Vũ

PS: Nguyễn Đình Tân, Đặng Văn Khải

Đi tuế cống theo lệ – Canh dần niên chế

– Canh dần

Sứ bộ này về nước năm Canh dần (1830)
Tân mão

(1831)

CS: Hoàng Văn Đản Đi mừng lễ Ngũ tuần đại khánh vua Đạo Quang Chưa tìm thấy hiện vật Năm này có hai sứ bộ sang Trung Hoa.

Sứ bộ Hoàng Văn Đản về nước năm Nhâm thìn (1832)

PS: Trương Hảo Hợp, Phan Huy Chú

CS: Lý Văn Phức

Sang Phúc Kiến giao trả một nhóm quan quân nhà Thanh bị đánh giạt vào Việt Nam năm 1831
Quý tị

(1833)

CS: Trần Văn Trung

PS: Phan Thanh Giản, Nguyễn Huy Chiểu

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật Năm này có hai sứ bộ sang Trung Hoa. Sứ bộ Trần Văn Trung về nước năm Giáp ngọ (1834)
CS: Lý Văn Phức Sang Quảng Đông
Ất mùi

(1835)

CS: Lý Văn Phức

PS: Trần Tú Dĩnh, Đỗ Tuấn Đại

Chưa rõ mục đích – Bính thân Sứ bộ này về nước năm Bính thân (1836)
Đinh dậu

(1837)

CS: Phạm Thế Trung

PS: Nguyễn Đức Hoạt, Nguyễn Văn Nhượng

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Tân sửu

(1841)

CS: Lý Văn Phức

PS: Nguyễn Đức Hoạt, Bùi Phụ Phong

Đi báo tang vua Minh Mạng và xin phong cho vua Thiệu Trị – Tân sửu

– Tân sửu niên chế

Năm này có 2 sứ bộ sang Trung Hoa
CS: Hoàng Tế Mỹ

PS: Nguyễn Đình Tân

Chưa rõ mục đích
Ất tị

(1845)

CS: Trương Hảo Hợp

PS: Phạm Chi Hương, Vương Hữu Quang

Đi tạ ơn việc sứ Thanh là Bảo Thang sang tuyên phong cho vua Thiệu Trị vào năm 1842. – Ất tị

– Ất tị niên chế

Bính ngọ

(1846)

CS: Ngô Kim Thanh

(phái đoàn này gồm 6 người)

Đi Quảng Đông mua hàng hóa – Đinh mùi
Mậu thân

(1848)

CS: Bùi (Ngọc) Quỹ

PS: Vương Hữu Quang, Nguyễn Thu

Đi báo tang vua Thiệu Trị và xin phong cho vua Tự Đức Năm này không ký kiểu đồ sứ
Kỷ dậu

(1849)

CS: Phan Tỉnh

PS: Mai Đức Thường, Nguyễn Văn Siêu

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Tân hợi

(1851)

CS: Trương Đăng Quế Đi chúc mừng vua Thanh là Hàm Phong mới lên ngôi – Nhâm tí mạnh đông Sứ bộ này về nước năm Nhâm tý (1852)
Quý sửu

(1853)

CS: Phan Huy Vịnh

PS: Vũ Văn Tuấn, Phạm Chi Hương

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật Sứ bộ này về nước năm Ất mão (1855)
Đinh tị

(1857)

CS: Nhữ Bá Sĩ Đi tuế cống theo lệ – Đinh tị niên chế

– Đinh tị

Tân dậu

(1861)

CS: Hoàng Thiện Trường

PS: Văn Đức Khuê, Nguyễn Huy Kỷ

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Ất sửu

(1865)

Đặng Huy Trứ Đi Quảng Đông, Áo Môn và Hương Cảng để thăm dò tình hình các nước Âu Mỹ (thám phỏng Dương tình) Chưa tìm thấy hiện vật
Đinh mão

(1867)

Đặng Huy Trứ Đi Quảng Đông thăm dò tình hình các nước Âu Mỹ và mua sắm vật dụng, vũ khí cho triều đình. Các đồ sứ có hiệu đề giống nhau ở 12 chữ đầu tiên:Tự Đức mậu thìn trung thu Đặng quý từ đường tế khí + 2 (hoặc 4 chữ) thể hiện chủ đề trang trí. Do bị ốm nặng, phải ở lại Trung Hoa để dưỡng bệnh nên đến năm 1868, Đặng Huy Trứ mới về nước.
Mậu thìn

(1868)

CS: Nguyễn Thuật

PS: Lê Tuấn, Hoàng Tịnh, Nguyễn Tư Giản

Đi tuế cống theo lệ, đồng thời yêu cầu nhà Thanh gửi quân sang vùng rừng núi Bắc Việt Nam để tiêu diệt các nhóm tàn quân Thái bình thiên quốc. – Mậu thìn niên chế Sứ bộ này về nước vào năm 1869
Canh ngọ

(1870)

CS: Trần Bích San

PS: Phạm Hy Lượng

Đi điều tra tình hình chính trị của Trung Hoa và đối sách của họ trước sự xâm lược của phương Tây. – Tự Đức tân mùi

– Tân mùi niên chế

Sứ bộ này về nước vào năm Tân Mùi (1871)
Quý dậu

(1873)

CS: Phan Sĩ Thục

PS: Hà Văn Quan

Đi tuế cống theo lệ Chưa tìm thấy hiện vật
Bính tí (1876) CS: Bùi Văn Dị

PS: Lâm Hoàng

Đi chúc mừng vua mới lên ngôi của nhà Thanh là Quang Tự, kết hợp đi cống theo lệ. – Bính tí ngự chế Sứ bộ này về nước vào năm Đinh sửu (1877)
Canh thìn (1880) CS: Nguyễn Thuật

PS: Trần Khánh Tiến

Đi tuế cống theo lệ
Nhâm ngọ

(1882)

CS: Phạm Thận Duật

PS: Nguyễn Thuật, Phạm Văn Trữ

Đầu tiên chỉ đi tới Thiên Tân cầu viện sự trợ giúp của Thanh triều để chống lại Pháp sau khi H. Rivière đưa quân chiếm thành Hà Nội. Sau đó đi tới Yên Kinh. Sứ bộ này về nước vào tháng 2 năm Giáp thân (1884)
Tân Dậu

(1921)

Không rõ tên các thành viên trong sứ bộ Đi mua đồ sứ ở Quảng Đông chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại Khánh của vua Khải Định. – Khải Định niên tạo

– Khải Định niên chế

– Khải Định Tân dậu niên tạo

Giáp tí

(1924)

Không rõ tên các thành viên trong sứ bộ Đi mua đồ sứ ở Quảng Đông chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại Khánh của vua Khải Định. – Khải Định Giáp tí niên tạo
Ất sửu

(1925)

Không rõ tên các thành viên trong sứ bộ

Đi mua đồ sứ ở Quảng Đông.

– Khải Định Ất sửu

3. Tổng Đốc, Bố Chánh sứ, Án Sát sứ tỉnh Nam Định năm 1898.

Tổng đốc (chữ Hán: 總督) là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Tổng đốc coi mọi mặt về dân sự lẫn quân sự trong địa hạt mình quản lý. Chức Tổng đốc được áp dụng tại Trung Quốc (hai triều Minh – Thanh) và một số nước Đông Á lân cận Trung Quốc, trong đó có Việt Nam (triều nhà Nguyễn).
Bố chính sứ (chữ Hán: 布政使 ), gọi tắt Bố chính, là vị trưởng quan ty Bố chính, trật Chánh tam phẩm văn giai. Là một ty thuộc bộ Hộ và lãnh trọng trách tại cấp dinh, trấn và tỉnh, ty Bố chính phụ trách các vấn đề tài chính, hành chính như thuế khóa, đinh điền, đê điều, hộ tịch lẫn trọng trách truyền đạt chính sách và chủ trương của triều đình
Án sát sứ (chữ Hán: 按察使), gọi tắt Án sát, là vị trưởng quan ty Án sát, trật Chánh tứ phẩm văn giai. Là một ty thuộc bộ Hình và lãnh trọng trách tại cấp thừa xuyên và tỉnh, ty Án sát phụ trách các vấn đề an ninh, kiện tụng, tư pháp, kỷ cương, và trạm dịch.
Nhân vật ngồi giữa là Tổng đốc Cao Xuân Dục. ( 高春育); tự là Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao; 1843–1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam, từng làm tổng đốc, thượng thư và Đông các đại học sĩ, tổng tài Quốc sử quán.
Tuy ông chỉ đỗ Cử Nhân nhưng làm quan rất cao đến Nhất Phẩm triều đình tước An Xuân Tử, được chấm thi Hội, thi Đình, một điều rất hiếm trong Quan Trường triều Nguyễn.
Nhân vật bên trái- Bố Chánh sứ Nam Định
Nhân vật bên phải- Án sát sứ Nam Định