CƠ SỞ PHÁP LÝ

Hiến pháp nước Cộng hòa Ba Lan 1997

Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993

Hiến pháp Italia 1947

Hiến pháp Nhật Bản 1946

hiến pháp cộng hòa Xéc năm 1992

Đạo luật Liên bang Áo năm 1970

NỘI DUNG TƯ VẤN

1. Tổng quát chung về chế độ bầu cử đa số

Chế độ bầu cử đa số được áp dụng từ lâu trong lịch sử thế giới. Theo chế độ bầu cử đa số, người trúng cử là ứng cử viên thu được đa số phiếu quy định. Chế độ bầu cử đa số được-chia thành các loại: chế độ bầu cử đa số tương đối, chế độ bầu cử đa số tuyệt đối và chế độ bầu cử đa số tăng cường.

Cơ sở xây dựng chế độ bầu cử tỷ lệ là tư tưởng đại diện tỷ lệ giữa các đảng chính trị, tức là số đại biểu của đảng chính trị tham gia tranh cử tương ứng với số phiếu cử tri mà các đảng thu được trong cuộc bầu cử. Người đầu tiên khởi xướng tư tưởng tỷ lệ là nhà cách mạng người Pháp LuiXenZiust vào năm 1793. Nhưng mãi đến những năm 40 của thế kỷ XIX Tomát Dzilpin người Mỹ và Vichto Canxiđêran người Thụy Sĩ mới đưa ra dự thảo đầu tiên của chế độ bầu cử tỷ lệ. Lần đầu tiên của chế độ bầu cử tỷ lệ được áp dụng ở Bỉ vào năm 1889. Ngày nay hơn 60 nước áp dụng chế độ bầu cử tỷ lệ và tính cho đến nay có hơn 150 biến dạng khác của chế độ bầu cử này. Để làm rõ hơn chúng ta sẽ tập trung vào chế độ bầu cử đa số, các loại chế độ bầu cử theo đa số như sau:

2. Phân loại chế độ bầu cử theo đa số:

2.1 Chế độ bầu cử số tương đối

Theo chế độ bầu cử này, ứng cử viên thu được nhiều phiếu nhất sẽ trúng cử (không cần quá 50% tổng số phiếu của cư tri). Chế độ bầu cử này còn có tên gọi là “người đầu tiên trúng cử” (tiếng Anh là the first past – the post). Phương pháp chia ghế đại biểu này thường đem lại kết quả, trừ trường hợp có hai hay nhiều ứng cử viên cùng thu được số phiếu bầu cao như nhau. Tuy nhiên, trong thực tế bầu cử, trường hợp này rất ít khi xảy ra, và nếu có thì kết quả bầu cử thường được xác định bằng phương pháp bốc thăm giữa các ứng cử viên đó. Hiện nay trên thế giới có hơn 40 nước áp dụng chế độ bầu cử đa số tương đối, trong số đó có Anh, Canada, Mỹ, Nga…

Chế độ bầu cử đa số tương đối có thể được áp dụng cho những đơn vị bầu cử có một hay nhiều ghế đại biểu.

Thông thường pháp luật về bầu cử của những nước áp dụng chế độ bầu cử đa số tương đối quy định số lượng tối thiểu cử tri tham gia bỏ phiếu để cuộc bầu cử được coi là hợp pháp. Trường hợp không quy định thì dù có một cử tri đi bỏ phiếu, cuộc bầu cử vẫn được coi là hợp lệ. Nếu đơn vị bầu cử được bầu một đại biểu mà chỉ có một ứng cử viên, thì ứng cử viên đó được coi là trúng cử không phụ thuộc vào kết quả bỏ phiếu của cử tri.

Thực tế cho thấy, chế độ bầu cử đa số tương đối không thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri. Trường hợp đơn vị bầu cử có một ghế đại biểu, người trúng cử thường đại diện cho thiểu số cử tri. Ví dụ, đơn vị bầu cử s có một ghế đại biểu, 100.000 cử tri, 4 ứng cử viên A, B, c, D. Kết quả bầu cử như sau: A thu được 30 nghìn phiếu; B – thu được 25 nghìn phiếu; c thu được 23 nghìn phiếu; D thu được 22 nghìn phiếu. Theo luật, ứng cử viên A trúng cử mặc dầu chỉ thu được 30 % tổng số phiếu bầu (tức là A được bầu bởi thiểu số tuyệt đối). Trong phạm vi cả nước, chế độ bầu cử đa số tương đối thường dẫn đến sự chênh lệch rõ rệt giữa số phiếu thu được và số ghế đại biểu của các đảng chính trị trong Nghị viện. Ví dụ, tính đến giữa năm 1990, trong các cuộc bầu cử vào Viện nhân dân (Hạ nghị viện) Ân Độ, trừ hai năm 1977 và 1989, Đảng Quốc đại Ân Độ không thu được 50% tổng số phiếu của cử tri nhưng lại chiếm đa số ghế, cụ thể năm 1980, đảng thu được 42, 56% số phiếu nhưng chiếm 374 trong tổng số 545 ghế đại biểu (66,84%), năm 1984, đảng thu được 49, 17% số phiếu nhưng chiếm 430 ghế đại biểu (78,9%)(1).

Chế độ bầu cử biểu quyết cả khối là một loại của chế độ bầu cử đa số tương đối. Chế độ bầu cử này được áp dụng trong cuộc bầu cử vào cơ quan tự quản địa phương của Anh và một số nước cho những đơn vị bầu cử có nhiều ghế đại biểu. Ví dụ, thành phố s có 4.500 cử tri, được bầu 5 đại biểu vào cơ quan tự quản địa phương. Có hai đảng tham gia tranh cử là X và Y, mỗi đảng được đề cử 5 ứng cử viên, ứng cử viên của đảng X là A, B, c, D, E. Ứng cử viên của đảng Y là H, I, K, L, M. Khi bỏ phiếu cử tri có thể bỏ cho một trong hai đảng theo danh sách ứng cử viên, hoặc chọn 5 trong số 10 ứng cử viên mà mình ủng hộ không phụ thuộc vào ứng cử viên đó thuộc đảng nào. Giả sử trong số 4.500 cử tri có:

2.100 cử tri bỏ phiếu cho đảng X;

1.900 cử tri bỏ phiếu cho đảng Y;

400 cử tri bỏ phiếu cho các ứng cử viên A, B, c, I, K;

100 cử tri bỏ phiếu cho các ứng cử viên A, c, D, H, M;

Kết quả thu được như sau:

Số phiếu của các ứng cử viên của Đảng X

A = 2.100+ 400+ 100

= 2.600 trúng cử;

B = 2.100+ 400

= 2.500 trúng cử;

c = 2.100+ 400+ 100

= 2.600 trúng cử;

D = 2.100

= 2.100 không trúng cử;

E = 2.100

= 2.100 không trúng cử;

Số phiếu của các ứng cử viên của Đảng Y.

H = 1.900+ 100

= 2.000 không trúng cử;

Y= 1.900 + 400

= 2.300 trúng cử;

K = 1.900 + 400

=2.300 trúng cử;

L = 1.900

= 1.900 không trúng cử;

M= 1.900+ 100

= 2.000 không trúng cử.

Như vậy, về lý thuyết chế độ bầu cử biểu quyết cả khối phản ánh trung thực hơn mối tương quan giữa phiếu bầu của mỗi đảng và đa số đại biểu của đảng đó. Tuy nhiên đặt giả thiết tương quan phiếu bầu của Đảng X và Y không phải là 2.100 và 1.900 mà là 2.500 và 1.500 thì kết quả bầu cử lại không phản ánh đúng nguyện vọng của cử tri (vì Đảng X sẽ chiếm toàn bộ 5 ghế đại biểu không phụ thuộc vào kết quả biểu quyết của 500 cử tri còn lại).

2.2 Chế độ bầu cử đa số tuyệt đối

Chế độ bầu cử đa số tuyệt đối là chế độ bầu cử mà theo đó để trúng cử ứng cử viên phải thu được ít nhất là 50% + 1 phiếu cử tri. Tùy theo quy định của mỗi nước, tổng số phiếu bầu có thể là:

  • Tổng số phiếu của cử tri đăng ký trong danh sách cử tri.
  • Tổng số phiếu của cử tri đi bỏ phiếu:

– Tổng số phiếu hợp lệ.

Các nước áp dụng chế độ bầu cử đa số tuyệt đối thường quy định số lượng tối thiểu cử tri tham gia bỏ phiếu để bảo đảm tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Số lượng tối thiểu đó có thể là một nửa số cử tri đăng ký trong danh sách cử tri hoặc ít hơn. Trường hợp pháp luật bầu cử quy định số lượng tối thiểu là một nửa số cử tri đăng ký trong danh sách cử tri (50%) thì đa số tuyệt đối của tổng số phiếu của cử tri đi bỏ phiếu sẽ là 25%+1 phiếu.

Nếu pháp luật bầu cử quy định đa số tuyệt đối của tổng số phiếu hợp lệ thì hệ số đa số tuyệt đối này càng ít hơn.

Cũng như chế độ bầu cử đa số tương đối, chế độ bầu cử đa số tuyệt đối có thể được áp dụng cho những đơn bị bầu cử có một hay nhiều ghế đại biểu. Chế độ bầu cử đa số tuyệt đối có ưu thế hơn so với chế độ bầu cử đa tương đối ở chỗ: các đại biểu được bầu là những ứng cử viên thu được đa số phiếu của cử tri (đại diện cho đa số cử tri ở đơn vị bầu cử). Tuy nhiên chế độ bầu cử đa số tuyệt đối cũng có khiếm khuyết như chế độ bầu cử đa số tương đối là số phiếu mà cử tri bầu cho ứng cử viên không trúng cử bị mất đi mà không được tính đến.

Thực tế cho thấy, chế độ bầu cử đa số tuyệt đối thường đem lại ưu thế cho các đảng phái lớn và bất lợi cho các đảng phái nhỏ. Ngoài ra chế độ bầu cử đa số tuyệt đối thường không hiệu quả – không xác định được kết quả qua một vòng bỏ phiếu. Để khắc phục khiếm khuyết này các nước áp dụng các phương pháp khác nhau. Một trong các phương pháp đó là bầu cử vòng hai. Lần bỏ phiếu đầu tiên áp dụng chế độ bầu cử đa số tuyệt đối, vòng bỏ phiếu thứ hai áp dụng chế độ bầu cử đa số tương đối.

Một phương pháp nữa nhằm khắc phục khiếm khuyết nói trên của chế độ bầu cử đa số tuyệt đối được các nước áp dụng là biểu quyết lựa chọn. Theo phương pháp này, khi viết phiếu cử tri không những xác định ứng cử viên mà mình ủng hộ mà còn được phép xác định ứng cử viên được ủng hộ kế tiếp là ai, trường hợp ứng cử viên kia không trúng cử. Việc xác định được cử tri thực hiện bằng cách đánh số 1 cho ứng cử viên mà cử tri ủng hộ, số 2 cho ứng cử viên mà cử tri sẽ ủng hộ trong trường hợp ứng cử viên đẩu không trúng cử. Những con số này gọi là tiền tố. Cử tri có thể ghi tiền tố tương ứng với số ứng cử viên trong đơn vị bầu cử. Ví dụ, trong đơn vị bầu cử có 6 ứng cử viên, cử tri CỌ thể ghi đêh tiền tố thứ 6. Khi kiểm phiếu, nhân viên phụ trách bầu cử ở khu vực bồ phiếu trước hết phải kiểm xem mỗi ứng cử viên thu được bao nhiêu phiếu bầu có tiền tố thứ nhất, ứng cử viên nào thu đựợc đa số phiếu tuyệt đối có tiền tố thứ nhất thì được coi là trúng cử. Trường hợp không ứng cử viên nào thu được đa số phiếu nói trên thì nhân viên phụ trách bầu cử sẽ tuyên bố ứng cử viên có ít nhất số phiếu bầu có tiền tố thứ nhất thua cử, đồng thời chuyển toàn bộ số phiếu này cho các ứng cử viên có tiền tố thứ hai trong phiên bầu. Nếu lần chia thứ nhất chưa xác định được kết quả bầu cử thì nhân viên phụ trách bầu cử sẽ tiếp tục chia lần thứ hai như cách nêu trên. Việc chia được tiến hành cho đến khi xác định được kết quả bầu cử.

2.3 Chế độ bầu cử đa số tăng cường

Chế độ bầu cử này là một loại đặc biệt của chế độ bầu cử đa số. Theo chế độ bầu cử đa số tăng cường, để trúng cử ứng cử viên phải thu được đa số phiếu tăng cường của cử tri. Các nước quy định đa số tăng cường khác nhau, nhưng trong mọi trường hợp, đa số tăng cường đều lớn hơn đa số tuyệt đối (thường từ 2/3 đến 3/4 tổng số phiếu) chế độ bầu cử đa số tăng cường thường không mang lại kết quả. Bởi vậy, các nước thường áp dụng kết hợp chế độ bầu cử đa số tăng cường với chế độ bầu cử đa số tương đối. Ví dụ, ở ChiLê trong cuộc bầu cử vào Viện dân biểu (Hạ nghị viện), mỗi đơn bị bầu cử được bầu hai đại biểu, Các đảng tham gia tranh cử giới thiệu ứng cử viên của đảng theo danh sách. Trong một đơn bị bầu cử, đảng nào thu được 2/3 tổng số phiếu hợp lệ sẽ nhận được cả hai ghế đại biểu của đơn vị bầu cử đó. Trường hợp không đảng nào thu được đa số phiếu nói trên thì hai đảng thu được nhiều phiếu nhất sẽ nhận được hai ghế đại biểu đó.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hang còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group