Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản bị giao nhầm, do tìm được, bắt được sau khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản đó.
1. Khái quát chung
Chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao cho cơ quan có trách nhiệm về tài sản bị giao nhầm, do tìm được, bắt được sau khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản đó.Khách thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Người thực hiện hành vi thõa mãn các dấu hiệu của tội danh này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về mặt lý luận, chủ thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản là chủ thể thường, là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
2. Tội chiếm giữ trái phép tài sản được quy định như thế nào
Tôi chiếm giữ trái phép tài sản được quy định tại Điều 176 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:
Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản1. Người nào cố tĩnh không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 dồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu đỉĩợc nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191
3. Bình luận về tội chiếm giữ trái phép tài sản người khác
Điều luật gồm 2 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội chiếm giữ trái phép tài sản và khoản 2 quy định các trường họp phạm tội tăng nặng.
3.1 Dẩu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội chiếm giữ trái phép tài sản theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS.
3.2 Mặt khách thể
Khách thể của tội phạm chiếm giữ trái phép tài sản là quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3.3 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội chiếm giữ trái phép tài sản thể hiện bởi hành vi biến tài sản đang tạm thời không có người hoặc chưa có người quản lý thành tài sản của mình một cách trái phép dưới hình thức: không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản bị giao nhầm; không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản mà mình tìm được hoặc bắt được.
Theo quy định của BLHS, thì các hành vi nêu trên chỉ bị coi là phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản sau khi:
+ Chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật nhưng người chiếm giữ tài sản vẫn không trả lại hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản mà mình tìm được hoặc bắt được;
+ Tài sản mà người phạm tội được nhận nhầm hoặc tìm được, bắt được có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật. Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. Để được coi là bảo vật quốc gia, thì hiện vật đó phải được Thủ tướng Chính phủ công nhận.
– Tội phạm được hoàn thành từ thời điểm người chiếm giữ tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay thẳng không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản theo quy định của pháp luật.
Điều luật quy định 2 dạng hành vi khách quan của tội phạm này. Đó là:
– Hành vi không trả lại tài sản được giao nhầm cho chủ tài sản mà tiếp tục chiếm hữu, sử dụng hoặc đã định đoạt tài sản đó và
– Hành vi không nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản mình tìm được, bắt được… mà tiếp tục chiếm hữu, sử dụng hoặc đã định đoạt tài sản đó.
Theo đó, đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu của chủ tài sản (chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp) vì những lý do khác nhau như tài sản bị giao nhầm, bị bỏ quên, bị đánh rơi… hoặc là những tài sản chưa được phát hiện như kim khí quý, những vật báu còn trong lòng đất. Tài sản là đoi tượng của tội chiếm giữ trái phép tài sản có đặc điểm giống như ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ở chỗ: Tài sản đó đã ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội một cách hợp pháp trước khi họ có hành vi phạm tội. Nhưng ở tội chiếm giữ trái phép, lý do mà người phạm tội có tài sản khác với lý do mà người phạm tội có tài sản ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội ở tội chiếm giữ trái phép tài sản có tài sản là do ngẫu nhiên. Sự ngẫu nhiên này có thể là:
– Ngẫu nhiên mà người phạm tội được giao nhầm. Việc giao nhầm này là hoàn toàn không có lỗi của người phạm tội. Đây là điểm khác so với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
– Ngẫu nhiên người phạm tội đã tìm được, bắt được… tài sản đã bị thất lạc hoặc chưa có người quản lý.
Khi đã có tài sản như vậy, người phạm tội đã có hành vi chiếm giữ trái phép. Đó là hành vi không trả lại tài sản có được cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc là hành vi không giao nộp tài sản có được cho cơ quan có trách nhiệm.
Có hành vi (không hành động) cố tình không trả lại tài sản, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan trách nhiệm.
Tài sản, cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá nêu trên mà người phạm tội chiếm hữu, có được là do bị người khác giao nhầm, do chính người phạm tội tìm được, bắt được (như đi đánh cá vớt được cổ vật…)
Về giá trị tài sản: Giá trị tài sản chiếm đoạt phải từ mười triệu đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn hoá thì luật không quy định giá trị để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự vì đây là những vật mang giá trị tinh thần hết sức quý giá không thể định giá cụ thể như những loại tài sản thông thường.
Để xác định là cổ vật, vật có giá trị lịch sử văn hoá thì phải có kết luận giám định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc trước đó đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận đó là cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá.
Tài sản bị giao nhầm được hiểu là tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên hoặc cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá do người giao nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn này hoàn toàn do phía người giao. Người nhận tài sản không có bất kỳ một thủ đoạn gian dối nào, để bên giao tài sản tưởng nhầm mà giao tài sản của mình.
Thời điểm hoàn thành tội phạm tính từ lúc sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm (như sở Văn hoá thông tin, Viện Bảo tàng…) yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật mà người chiếm hữu tài sản, cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá vẫn cố tình không trả lại.Thời điểm này có thể ngay sau khi có yêu cầu trả lại tài sản, cổ vật, vật có giá trị lịch sử, văn hoá (nếu người yêu cầu ra yêu cầu là trả ngay lập tức) hoặc ngay sau khi kết thúc thời hạn mà người yêu cầu đưa ra.
Như vậy, kể từ khi thời điểm yêu cầu giao trả tài sản kết thúc thì việc chiếm giữ các đối tượng nêu trên của người bị yêu cầu trở thành bất hợp pháp. Tuy nhiên nếu do hoàn cảnh khách quan như bão, lụt, bệnh nặng, làm trở ngại việc giao trả các đối tượng nêu trên thì người đang chiếm hữu các đối tượng đó không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
3.4 Dấu hiệu lỗi của chủ thể
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài sản đang có không phải là tài sản của mình và biết mình có nghĩa vụ phải trả lại cho chủ tài sản, người quản lý họp pháp hoặc phải giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó vì mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Dấu hiệu cố tình. Dấu hiệu khác thuộc mặt chủ quan của tội phạm này là dấu hiệu cố tình. Đây là dấu hiệu phản ánh thái độ của người có hành vi chiếm giữ trái phép. Thái độ cố tình là thái độ cương quyết, dứt khoát không chịu giao nộp hoặc không chịu trả lại tài sản mặc dù đã được chủ tài sản hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo đúng quy định của pháp luật.
Tội chiếm giữ trái phép tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài sản đó không thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình, biết mình có nghĩa vụ phải trả lại cho chủ tài sản hoặc phải giao nộp cho cơ quan Nhà nước có trách nhiệm. Nhưng vì muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình nên cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền về tài sản.
3.5 Dấu hiệu phân biệt giữa tội chiếm giữ trái phép tài sản với hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là vi phạm
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản chỉ cấu thành tội chiếm giữ trái phép tài sản khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
– Tài sản bị chiếm giữ trái phép trị giá từ 10 triệu đồng trở lên;
– Tài sản bị chiếm giữ trái phép là di vật, cổ vật. Trong đó, di vật được hiểu là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật được hiểu là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên.
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng cho trường họp tài sản bị chiếm giữ trái phép trị giá 200 triệu đồng trở lên hoặc tài sản bị chiếm giữ trái phép là bảo vật quốc gia. Đó “… là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học” (Điều 4 Luật di sản văn hóa).