1. Thời bao cấp là gì?

Bao cấp hay thời bao cấp là khái niệm mà người Việt dùng để đặt tên cho một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 – 1986 diễn ra ở Việt Nam, là thời điểm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt của nhân dân ta với các đế quốc hùng mạnh nhất thế giới như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và nhiều quân đội của các nước đồng minh khác.

Theo đó, thời bao cấp là thời kỳ mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước chi trả, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó. Trong đó, nền kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.

Ở thời kỳ này, nước ta đã xây dựng theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô (cũ). Thời bao cấp ở nước ta có hoạt động kinh tế diễn ra với nền kinh tế kế hoạch hóa theo tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời xóa bỏ nền kinh tế tư nhân để thay vào đó là kinh tế do Nhà nước làm chủ. Mặc dù trước đó, khi miền Bắc được giải phóng vào năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thì nền kinh tế chỉ huy đã được áp dụng, nhưng thời kỳ bao cấp mới đầy đủ và thể hiện rõ nhất ở giai đoạn từ đầu năm 1976 – 1986 trên phạm vi toàn quốc.

 

2. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là gì?

Trước tiên, cần phải hiểu rằng, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là một chính sách, trong đó nền kinh tế hoạt động dưới sự trấn áp của Nhà nước về những yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Nhà nước đã can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế mà không coi trọng những quy luật thị trường. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ yếu trong thời kỳ bao cấp, còn những thành phần kinh tế khác lại phần đông không được chú trọng. Như vậy, có thể kết luận sơ bộ rằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này tuy có những ưu điểm thích hợp cho thực trạng của nước ta thời kỳ đó, nhưng đồng thời cũng có nhiều hạn chế ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam sau này.

 

3. Đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp mang những đặc trưng cơ bản như sau:

  • Thứ nhất, Nhà nước quản lý, định hướng nền kinh tế đa phần bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên mạng lưới hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh cụ thể được áp từ trên xuống dưới. Nhà nước đã thiết kế xây dựng những chỉ tiêu một cách chủ quan, sau đó đưa xuống cho những doanh nghiệp, thậm chí còn cả hợp tác xã thực thi. Và việc cấp phép vốn, vật tư, giao nộp mẫu sản phẩm cho Nhà nước cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho. Điều này, buộc những doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ chăm sóc đến một yếu tố duy nhất đó là hoàn thành xong chỉ tiêu.
  • Thứ hai, các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. Những thiệt hại về vật chất do những quyết định hành động không đúng gây ra thì Nhà nước phải hoàn toàn phải gánh chịu. Mặt khác, Nhà nước chỉ coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, điều này làm hạn chế sự tăng trưởng và góp phần vào nền kinh tế của những thành phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế tư nhân khác.
  • Thứ ba, mối quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ trao đổi bằng hiện vật là chủ yếu. Trong thời kỳ này, lãi suất vay, tiền lương, … chỉ được dùng để đo lường và thống kê một cách hình thức, mà không mang lại giá trị trao đổi. Giá cả cũng không phản ánh quan hệ cung và cầu. Mặt khác, tiền lương không được tính theo cấp bậc hành chính và thâm niên, mà tính theo trung bình và cũng không tính theo năng suất lao động của mỗi người. Điều này đã dẫn đến thực trạng khan hiếm hàng hóa khiến đời sống trở nên vất vả, chất lượng và số lượng các sản phẩm, hàng hóa cũng không cao.
  • Thứ tư, bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian. Thể chế, chính sách của Nhà nước còn chồng chéo, thiếu thống nhất, các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, trật tự, kỷ cương chưa nghiêm. Việc tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh nhiều cấp, cách thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu vừa phân tán chưa thống nhất. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều thiết sót về cả phẩm chất, năng lực cũng như có trách nhiệm chưa cao.

Chính vì mang những đặc trưng như vậy, nên khi áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp vào nước ta thời kỳ đó, ngành kinh tế thương nghiệp tư nhận dường như đã bị loại bỏ hoàn toàn, thậm chí còn được coi là không hợp pháp trong nền kinh tế chính thống. Hàng hóa được phân phối tới người dân theo chế độ tem phiếu do Nhà nước điều hành và nắm toàn quyền. Ở thời kỳ này, việc vận chuyển hàng hóa tự do giữa các địa phương, mua bán trên thị trường cũng bị xóa bỏ hoàn toàn. Hàng hóa do Nhà nước phân phối độc quyền cũng như hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Việc phân phối lương thực, thực phẩm đều dựa theo đầu người, xét theo hộ khẩu.

Từ đây dẫn đến việc chế độ hộ khẩu hình thành. Nổi bật nhất là sổ gạo, trong đó có ấn định số lượng và các mặt hàng được phép mua dựa trên số khẩu trong một gia đình. Khi cả nước vừa mới thoát khỏi chiến tranh, toàn dân bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước nhưng trong xã hội, hàng hóa lại khan hiếm, không đủ phục vụ đầy đủ nhu cầu của mọi người dân. Lương đi làm của người lao động cũng được quy ra lương thực. Song, chợ đen vẫn hoạt động nhỏ lẻ, bị xem là bất hợp pháp nên hàng hóa ở chợ không nhiều và có giá rất cao. Nhiều người lĩnh hàng tem phiếu nhưng không dùng tới sẽ thường đem bán ở chợ đen. Nói chung, đồng tiền vào thời kỳ này ở nước ta không có nhiều giá trị sử dụng. Qua từng giai đoạn áp dụng và phổ biến chế độ tem phiếu rộng khắp thì đồng tiền cũng mất giá dần dần. Nền kinh tế – xã hội nước ta dậm chân tại chỗ, không có sự đột phá, phát triển.

 

4. Đánh giá về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp

Từ những phân tích về khái niệm, đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, có thể rút ra một số đánh giá như sau:

  • Về ưu điểm:

– Đối với kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa của đất nước theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.

– Đối với văn hóa: Biểu hiện rõ nhất của chính sách này là tuy những văn nghệ sĩ được tập hợp trong những hội sáng tác, nhưng cơ cấu tổ chức và cách thao tác của những hội này đa phần vẫn giống như mọi cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước. Văn nghệ sĩ chuyên nghiệp là những cán bộ trong biên chế, những viên chức ăn lương để sáng tác. Điều này có những mặt tốt, góp phần phát huy văn hóa truyền thống với hiệu quả cao.

– Đối với xã hội: Chính sách này sinh ra trong thời kỳ đất nước vừa bước qua những năm tháng đau thương của cuộc chiến tranh. Tình hình xã hội còn nhiều rối ren, phức tạp. Vì vậy, nó đã góp phần duy trì đời sống xã hội cũng như trật tự xã hội.

  • Về hạn chế:

– Đối với kinh tế: Theo thời gian, chính sách này ngày càng không tương thích với tình hình lúc bấy giờ của đất nước. Nó làm thủ tiêu cạnh tranh trong thị trường, làm trì trệ việc áp dụng khoa học – công nghệ tiên bộ, triệt tiêu động lực kinh tế của người lao động, không kích thích tính năng động, phát minh sáng tạo của những đơn vị có chức năng sản xuất kinh doanh thương mại. Chính điều này đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ, khủng hoảng cục bộ.

– Đối với văn hóa: Quy luật sàng lọc không phát huy được tác dụng. Số lượng văn nghệ sĩ chuyên nghiệp đến một lúc nào đó sẽ vượt quá tỷ lệ cần thiết so với số dân, đồng thời cũng quá tải so với khả năng hỗ trợ của nền kinh tế đất nước.

Mặt khác, do bị “viên chức hóa”, nên văn nghệ sĩ không sống đa phần bằng sáng tác. Một số người trở thành quan chức đầu ngành, ngoài những quyền lợi và nghĩa vụ của những viên chức cấp cao, nếu vẫn sáng tác, họ còn được mặc nhiên hưởng độc quyền của lối “khen chê theo chức vụ”, dẫn tới quan liêu hóa, xa rời đời sống nhân dân. Một số khác, dần dà tỏ rõ không có kỹ năng đặc biệt quan trọng, nhưng không bị luật sàng lọc gạt bỏ để chuyển nghề, cho nên vì thế rất dễ tìm đến những đề tài nhất thời, cục bộ, dễ chạy theo xu hướng, chủ trương vốn chỉ có ý nghĩa nhất thời, tạo ra một số lượng quá lớn những tác phẩm xoàng xĩnh, nhạt nhẽo, vô thưởng vô phạt, hạ thấp trình độ chung của nền văn nghệ nước nhà.

– Đối với xã hội: Sản xuất công – nông nghiệp bị đình đốn. Việc lưu thông, phân phối ách tắc. Lạm phát ở mức cao. Đời sống của những những tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ ăn trong ít ngày. Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn. Tệ nạn xã hội lan rộng. Từ đó dẫn tới lòng tin của nhân dân với Nhà nước giảm sút trông thấy.

Trên đây là toàn văn bài viết của Luật LVN Group về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp (thời bao cấp). Hi vọng chúng tôi đã đem đến cho bạn những thông tin hữu ích. Luật LVN Group xin trận trọng cảm ơn.