Điều kiện vay dưới mức chuẩn của ngân hàng, thủ tục nhanh gọn và thuận tiện đó là điều làm nên ưu điểm nổi trội của hoạt động vay tiêu dùng của các công ty tài chính trước những hoạt động cho vay chính thống của ngân hàng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về hợp đồng cho vay tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay đang bộc lộ một số nội dung không phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

Là một nguyên tắc hiến định, “bình đẳng” trong quan hệ pháp luật dân sự là việc các bên đều được thực hiện quyền được thỏa thuận, đề đạt những yêu cầu, nguyện vọng và việc đưa ra quyết định có đồng ý hay không mong muốn của bên kia trong suốt quá trình từ đàm phán cho đến thời điểm ký kết hợp đồng bao gồm cả phần sửa đổi, bổ sung nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, việc áp dụng quyền ưu tiên đối với một số chủ thể như việc ban hành danh mục các loại hàng hóa, dịch vụ được sử dụng điều kiện giao dịch chung hay hợp đồng mẫu đang làm hạn chế một phần tính bình đẳng trong một quan hệ pháp luật dân sự. Mặc dù, các nhà làm luật vẫn tiếp tục diễn giải theo hướng nguyên tắc này  vẫn sẽ được đảm bảo trong các điều kiện giao dịch chung, hợp đồng mẫu quy định tại khoản 3 Điều 406 Bộ luật dân sự năm 2015 và các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì điều kiện, thủ tục khi áp dụng điều kiện giao dịch chung cho các chủ thể trong kinh doanh thương mại chỉ mang tính chất nặng về hình thức, thủ tục mà ít xem xét về nội dung của hợp đồng.

Hiện nay, Quyết định 35/2015/QĐ-TTg đã đưa hoạt động vay vốn cá nhân (nhằm mục đích tiêu dùng) vào đối tượng phải thực hiện việc đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung. Quy định một phần hạn chế sự độc đoán của tổ chức tài chính trong việc quy định những điều khoản trong hợp đồng cấp tín dụng. Tuy nhiên, liệu việc quản lý Nhà nước bằng cơ chế tiền kiểm này có hiệu quả hay không khi phạm vi xem xét nội dung hợp đồng quy định tại Điều 13 Nghị định 99/2011/NĐ-CP chỉ nằm trong khuôn khổ: xác định nội dung không có hiệu lực theo quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hình thức hợp đồng, sự phù hợp tương đối với các quy định pháp luật dân sự. Như vậy, chỉ với những quy định này chưa thể nào xác định nguyên tắc bình đẳng vẫn được đảm bảo trong giao dịch “cho vay tiêu dùng” giữa các tổ chức tài chính với cá nhân có nhu cầu vay vốn.

Làm sao có thể bình đẳng khi xuyên suốt một hợp đồng không hề bóng dáng của một yêu cầu, sự đề nghị của bên còn lại trong giao dịch mà hoàn toàn là sự áp đặt ý chí của một bên? Và khi đó, các “ông lớn” tín dụng là bên có quyền quy định tất cả các các nội dung trong hợp đồng từ lãi suất, mức tiền vay, thời hạn vay và những điều khoản phạt vi phạm hợp đồng. Một quan hệ pháp luật dân sự không có sự biểu hiện ý chí của cả hai bên làm sao có thể đảm bảo được tính chất bình đẳng, những diễn giải về việc quy định các điều kiện để áp dụng các hợp đồng mẫu cũng không thể nào phủ nhận được một sự thật là người vay vốn tín chấp từ các tổ chức tài chính luôn là bên yếu thế hơn khi phải chấp nhận những điều kiện giao dịch chung và hợp đồng mẫu với những điều khoản có lợi hơn từ phía bên kia.

Hiện nay, căn cứ theo quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN và Thông tư 43/2016/TT-NHNN, Ngân hàng Nhà nước đã có những động thái điều chỉnh về một số vấn đề nhất định của hoạt động cho vay ở các tổ chức tín dụng, công ty tài chính ví dụ như khung lãi suất, các điều khoản của hợp đồng, mức cho vay, chi phí có liên quan,…Tuy nhiên, những quy định để khách hàng có thể thỏa thuận được về lãi suất với tổ chức tín dụng lại khá chung chung, mang tính hình thức và có lợi hơn cho phía các tổ chức tín dụng, ví dụ: “Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng…” (Khoản 1 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Câu hỏi đặt ra là việc xác định nhu cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng đâu phải do cả hai bên cùng đánh giá để khách hàng có thể “ngang hàng” khi đưa ra yêu cầu để thỏa thuận.

Một hợp đồng tín dụng với tất cả các điều khoản đã được soạn thảo sẵn được áp dụng chung cho tất cả các khách hàng và “cộp mác”_không thể thỏa thuận hay bổ sung gì thêm vì là quy chế cho vay nội bộ, đã xem xét sự phù hợp với quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước. Nếu chỉ xét về mặt hình thức thì một tổ chức tín dụng đương nhiên đầy đủ khả năng để khiến khách hàng của họ chẳng lăn tăn gì về lỗi câu chữ hoặc độ chặt chẽ về nội dung đặc biệt lại đã hoàn thành việc đăng ký hợp đồng mẫu tại Bộ Công thương theo quy định tại Nghị định 99/2011/NĐ_CP. Và đương nhiên hợp đồng đã được soạn thảo sẵn, khách hàng có thể đọc, thắc mắc và được giải thích về bất kỳ nội dung nào, đấy chính là việc các tổ chức tín dụng cung cấp và công khai các thông tin về sản phẩm, dịch vụ “cho vay vốn” của họ tuy nhiên vốn không phải khách hàng nào cũng có đầy đủ trình độ và thời gian để hiểu được tất cả nội dung đã được quy định trong hợp đồng khi thiếu chú giải chi tiết và ngôn hợp đồng vốn lại chẳng mang tính chất “đời thường” họ vẫn sử dụng. Và sự thật là nếu chỉ với những quy định của pháp luật hiện nay quản lý về đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thì vô hình trung chúng ta đang tạo điều kiện cho sự độc quyền của các tổ chức tín dụng, góp phần vào việc phá vỡ không gian giao dịch bình đẳng trong hoạt động cho vay vốn.

Khi người ta đặt câu hỏi về việc có hay không nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ pháp luật này thì đương nhiên việc giải thích tất nhiên sẽ là có. Không bình đẳng, không thỏa thuận thì sao lại ký tên mình vào hợp đồng, ngân hàng chỉ làm thay phần hiểu biết pháp luật hạn hẹp từ phía khách hàng và chỉ chịu trách nhiệm làm thay phần khách hàng không thể tự làm được. Vấn đề là khách hàng của họ có thể từ chối ký kết hợp đồng nếu không đồng ý với các điều khoản “cứng”, tất cả các vấn đề đã được trù liệu trong hợp đồng khách hàng đều đã được cung cấp đầy đủ và có thể được giải thích bởi các nhân viên trong các tổ chức tín dụng. Vậy là, có chăng là lỗi ở phía người đi vay khi không thể tự tạo ra được những điều kiện để có thể đứng ra thỏa thuận một cách bình đẳng với bên cho vay của mình?

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng hoặc quan hệ dân sự Qúy khách hàng có thể trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến, gọi: 1900.0191 để được tư vấn, hỗ trợ trực tiếp.

Trân trọng./.

CV: Ngô Trang -Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group