Định giá hàng tồn kho (inventory valuation) là xác định giá trị bằng tiền phù hợp cho dự trữ nguyên liệu, bán thành phẩm và thành phẩm của doanh nghiệp. Khi lạm phát làm cho giá nhiều lô hàng dự trữ đã mua trong thời kỳ kinh doanh có giá trị khác nhau, doanh nghiệp phải quyết định xem: (1) lấy giá trị bằng tiền nào để tính cho khối lượng dự trữ cuối kỳ trong bảng tổng kết tài sản; và (2) lấy chi phí nào để tính cho các đơn vị hàng hoá dã tiêu thụ trong các tài khoản của công ty, Quyết định thứ hai có liên quan trực tiếp tới chi phí hàng hoá tiêu thụ và lãi gộp.
Các công thức khác nhau được sử dụng để đánh giá dự trữ đem lại kết quả khác nhau của giá trị dự trữ trong bảng tổng kết tài sản và chi phí hàng hoá tiêu thụ. Chẳng hạn phương pháp vào trước – ra trước (FIFO) giả định hàng hoá được rút ra khỏi dự trữ đúng theo thứ tự nhập hàng, cho nên chi phí hàng hoá tiêu thụ được tính dựa trên chi phí của những hàng hoá cũ nhất trong dự trữ, còn giá trị dự trữ cuối kỳ được tính dựa trên giá của những lần mua hàng gần nhất, Ngược lại phương pháp vào sau – ra trước (LIFO) gia đình rằng những hàng hoá được mua sau cùng được rút ra khỏi dự trữ trước, cho nên chi phí của hàng hoá tiêu thụ được tính dựa trên chi phí của những lần mua hàng gần nhất, còn giá trị tồn kho cuối kỳ được tính dựa trên những hàng hoá cũ nhất còn nằm trong kho. Phương pháp vào sau – ra trước đem lại kết quả cao hơn khi tính chi phí cho hàng hoá tiêu thụ: đại lượng này gần đúng hơn với chi phí thay thế của hàng hoá tiêu thụ, nhưng có xu thế đánh giá thấp giá trị của dự trữ cuối kỳ.
Vì mục đích thận trọng, các doanh nghiệp có xu hướng đánh giá dự trữ theo chi phí hay giá trị thị trường, tức sử dụng giá thấp hơn để tránh thổi phổng lợi nhuận.