1.Khái niệm Luật quốc tế là gì ?

Những nghiên cứu của khoa học pháp lý đã chỉ ra sự hình thành tất yếu của nhà nước và cùng với nhà nước là pháp luật. Trong quá trình hoạt động, nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau để quản lý, điểu hành và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Một trong số công cụ hữu hiệu có ý nghĩa vừa duy trì quyền lực nhà nước, vừa phát huy được những tính năng quan trọng của bộ máy nhà nước là pháp luật. Hoạt động thuộc chức năng cơ bản của nhà nước được khái quát theo hai phương diện chủ yếu là hoạt động đối nội và đối ngoại. Để thực hiện hai chức năng trên, nhà nước đã sử dụng phổ biến hai loại công cụ pháp lý khác nhau mà gọi theo thuật ngữ ưuyền thống, kinh điển và hiện đại là luật quốc gia và luật quốc tế. Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật của riêng mình, còn quan hệ của cộng đồng các quốc gia lại được điều chỉnh bời hệ thống luật chung là luật quốc tế. 

 Thời kỳ sơ khai là quan hệ giữa các quốc gia láng giềng, dần dần mở rộng vượt khỏi phạm vi khu vực và phát triển thành các quan hệ có tính chất liên khu vực hay cộng đổng quốc tế như ngày nay.

Cùng với sự gia tăng của các quan hệ quốc tế và sự phát triển của luật quốc tế, những thuật ngữ được sử dụng gắn với các tiến trình của luật quốc tế cũng xuất hiện và có sự thay đổi qua các thời kỳ. Một loạt các thuật ngữ như “Luật quốc tể” (Inteniatìonal ỉaw), “Pháp luật quốc tế”, “Luật quốc tế chung”, hay có thể gọi theo thuật ngữ tương đổng là “Công pháp quốc tế” (ỉnternatỉonal Public Law) đang được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý quốc tế cũng như trong sinh hoạt quốc tế có nguồn gốc từ một số thuật ngữ pháp lý cổ điển như “Luật Vạn dân – Jus gentium” (trong Luật La Mã cổ), “Luật giữa các dán tộc – Jus inter gentes ” (xuất hiện ở thế kỷ XVI).

Về tổng thể, các thuật ngữ đó đều có sự tương đồng về những nôi dung cơ bản, với ý nghĩa dùng để chỉ hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Hệ thống các nguyên tắc và quy phạm này mang tính chất là hệ thống pháp luật độc lập, tồn tại song song với hệ thống pháp luật của từng quốc gia nhưng giữa các thuật ngữ nêu trên có sự phân biệt với thuật ngữ “Luật quốc tế khu vực”. Thuật ngữ “Luật quốc tế khu vực” là tổng thể các quy phạm điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong cùng một khu vực địa lý hoặc cùng xu hướng chính trị, tôn giáo hay các liên kết khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh châu Ằu (EU).

Ngoài ra, từ phương diện học thuật còn có sự khác biệt giữa thuật ngữ “Luật quốc tế”“Khoa học luật quốc tế”, “Khoa học luật quốc tế” là môn khoa học pháp lý chuyên ngành nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiỗn đặt ra trong quan hệ quốc tê’ giữa các quốc gia và thực thể quốc tế khác, thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế.

Luật quốc tê’ đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển (thời kỳ cổ đại; thời kỳ trung đại; thời kỳ cận đại và thời kỳ hiện đại). Khác với các thời kỳ trước, sự hình thành và phát triển của luật quốc tê’ hiện đại được đặt trong hệ thống quốc tê’ và là một bộ phận cơ bản của hệ thống đó Trên bình diện chung, hệ thống quốc tế được tạo thành bởi nhiều yếu tố, như các quốc gia; các tổ chức quốc tế liên quốc gia; các thực thể quốc tế khác (và các thiết chê’ quốc tê’ của những tổ chức này); luật quốc tố và các quy phạm khác của hệ thống quốc tế. Giữa các yếu tố này có sự gắn kết với nhau trong những mối quan hệ tương tác, tạo thành hê thống quốc tế. Đặc trưng tiêu biểu cửa hệ thống quốc tế được thể hiện qua yếu tố trung tâm là quốc gia và những mối quan hệ, liên kết giữa quốc gia với các yếu tô’ khác, thông qua sự điều chỉnh của các loại quy phạm mang tính pháp lý – chính trị và với những phương thức nhất định. Liên quan đến quốc gia và sự phát triển của hệ thống quốc tế, luật quốc tê’ hiện đại giữ vai trung tâm, bởi được các quốc gia và các thực thể quốc tê’ khác sử dụng với tính chất là công cụ pháp lý để duy trì sự phát triển của hệ thống này trong một trật tự phấp luật nhất định và có sự bao quát tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống quốc tế. 

Hình thành và tồn tại trong hệ thống quốc tế như vậy, kết hợp với xu thế phát triổn của thời đại (xu thố quốc tê’ hoá mọi mật của đời sống quốc tê’ ở cả hai cấp độ, khu vực và toàn cầu, dựa trên cơ sở nền kinh tế trí thức), luật quốc tê’ hiện đại trong những thập nguyên đầu của thê’ kỷ XXI là kết quả và là sự phản ánh các quan hệ quốc tê’ trong điều kiện hợp tác, phát triển của cộng đồng thế giới đang có những thay đối to lớn về mọi phương diện, cấp độ, tuân theo quy luật vận động khách quan ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi loàn cầu.

Từ những nót khái quát trên, có thể định nghĩa, luật quốc tê’ là hệ thống các nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thoả thuận tạo dựng nên, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữạ quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Đó là các nguyên tắc và quy phạm áp dụng chung mà không có sự phân biệt về tính chất, hình thức hay vị thế của từng quốc gia khi thiết lâp quan hệ quốc tế giữa những chủ thể này với nhau.

2. Chủ thể của luật quốc tế

Phù hợp với tính chất của hệ thống các nguyên tấc và quy phạm luật quốc tế, về lý luận cũng như về pháp lý, quốc gia và những thực thể quốc tế khác, như các tổ chức quốc tê’ liên quốc gia (liên chính phủ) hay các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể cùa luật quốc tế nhưng trong số những thực thể này, quốc gia là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật quốc tế cũng như luật quốc tế.

Khoa học luật quốc tế quan niệm, quốc gia là thực thể được hình thành trên cơ sở có lãnh thổ, dân cư và quyền lực nhà nước, với thuộc tính chính trị – pháp lý bao trùm là chủ quyền quốc gia. Quan hệ pháp luật quốc tế thường do quốc gia tự xác lập hoặc thông qua khuôn khổ các tổ chức quốc tế do các quốc gia thành lập nên. Trong quá trình thiết lập và phát triển các quan hệ quốc tế, sự bình đẳng của quốc gia dựa trên chủ quyền quốc gia có tính quyết định đến bản chất của luật quốc tế, thể hiện trong quá trình hình thành và thực thi luật quốc tế.

Các quan hệ pháp luật quốc tế của quốc gia đều nhàm hướng đến và vì lợi ích quốc gia. Do đó, về cơ bản, lợi ích quốc gia, dân tộc là nền tảng mà dựa trên cơ sở đó, các quốc gia có thể đạt được các thoả thuận khi thiết lập hoặc tham gia một quan hệ pháp luật quốc tế nhất định.

Trong thực tiễn, cá nhân hoặc pháp nhân kinh tế, xã hội chỉ có thể tham gia rất hãn hữu vào một số loại quan hệ pháp luật quốc tê’ xác định nhưng không vì thế mà cho rằng những thực thể này ỉà chủ thể của luật quốc tế.

3. Quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh 

Quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh là quan hệ giữa các quốc gia hoặc các thực thể quốc tế khác, như các tổ chức quốc tế liên quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, nảy sinh trong các lĩnh vực (chính trị, kinh tế, xã hỡi…) của dời sống quốc tế. Khác với các quan hệ do luật quốc gia điều chỉnh, quan hệ thuộc phạm vi tác động của luật quốc tế là quan hệ mang tính chất liên quốc gia, liên chính phủ, phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống quốc tế. Những quan hê quốc tế đó đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng quy phạm luật quốc tế. Điều kiện này là căn cứ xác định tính pháp lý quốc té’ của mối quan hệ pháp luật mà các quốc gia thiết lập với nhau hoặc với chủ thể khác của luật quốc tế, đồng thời có cơ sở để phân biệt quan hệ pháp luật quốc tế của quốc gia với quan hệ pháp luật khác mà quốc gia là một bên chủ thể, ví dụ, quan hê pháp luật trong nước, quan hệ pháp luật thuộc phạm vi tư pháp quốc tế hay các quan hệ pháp luật thương mại quốc tế, kinh tế quốc tế… Như vậy, quan hệ liên quốc gia (liên chính phủ) giữa các quốc gia và các thực thể quốc tế khác phát sinh trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hôi… và được điều chỉnh bằng luật quốc tế gọi là quan hệ pháp luật quốc tế.

Trong nhiều trường hợp, quan hệ quốc tế của hai quốc gia cùng hướng đến khách thể và đối tượng chung nhưng do tính chất khác nhau của quy phạm pháp luật được viện dẫn để điều chỉnh quan hệ đó nên có thể phát sinh những quan hệ pháp luật khác nhau. Ví dụ, liên quan đến đối tượng là một vùng lãnh thổ quốc gịa nhất định có thể hình thành hoặc là quan hệ chuyển nhượng, trao đổi giữa hai quốc gia (mang tính chất là  quan hê pháp luật quốc tế, được điều chỉnh bằng quy phạm của điều ước quốc tế) hay quan hệ hợp đổng quốc tế để mua bán vùng lãnh thổ đó, với cùng mục đích là chuyển đổi chủ sở hữu, từ đó xác lập chủ quyền quốc gia. Trong thực tiễn quan hệ quốc tê’ đã tồn tại những trường hợp tương tự như vậy, đó là hợp đồng bán vùng Alátxka của Sa hoàng Nga cho Mỹ nám 1907 với giá 7,5 triệu rúp vàng.

Sự phân biệt ranh giới của quan hệ pháp luật quốc tế với các quan hệ pháp luật khác mà quốc gia tham gia vói tư cách chủ thể pháp luật có ý nghĩa lý luận, pháp lý cơ bản vì nó liên quan đến vấn dề xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của quốc gia, cùng các cơ chê’ pháp lý tương ứng để giải quyết các quan hệ phát luật cụ thể. Quan hệ pháp luật quốc tê’ phát sinh, thay dổi hoặc chấm dứt, do tác động của những quy phạm luật quốc tế, của năng lực chủ thể luật quốc tê’ và sự kiện pháp lý quốc tê’ (bao gổm sự biến pháp lý quốc tế và hành vi pháp luật của chủ thể luật quốc tế).

4.Sự kiện pháp lý quốc tế

Là các sự kiện xảy ra trong thực tế, gây ra các hệ quả pháp lý trong lĩnh vực luật quốc tế. Một sự kiện được xác định là sự biến pháp lý không phải từ bản chất của sự biếh mà do luật quốc tế ràng buộc các kết quả pháp lý nhất định với các sự kiện đó. Luật quốc tế có sự phân loại sự biến pháp lý quốc tế dựa trên một sô’ liêu chí khác nhau như sự biến tự nhiên (là các sự kiện vật chất hoặc tự nhiên mà luật quốc tế ràng buộc các kết quả pháp lý xác định đối với các sự kiện này, chẳng hạn trường hợp ngập chìm của một hòn đảo là đối tượng thực hiện một điều ước quốc tế) và sự biến có liên quan đến hoạt động của con người (được hiểu là hoạt động cửa thể nhằn, pháp nhân mặc dù không phải với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật quốc tê’ nhưng luật quốc tê’ vẫn xác nhận những kết quả pháp lý ràng buộc với các hoạt động này, ví dụ, hành động vượt biên giới trái phép của cá nhân) 

5.Hành vi pháp luật quốc tế

Trong khoa học luật quốc tế, hành vi pháp luật quốc tế được xác định là hành vi thể hiện ý chí của chủ thể luật quốc tế mà sự thể hiện đó được luật quốc tế quy định ràng buộc với các hệ quả pháp lý xác định. Theo đó thì trong một hành vi pháp luật quốc tế thường bao gổm sự thể hiện ý chí của chủ thể ỉuật quốc tế và việc xuất hiện các kết quả pháp lý quốc tế mà các kết quả này được luật quốc tế ràng buộc với sự thể hiện ý chí nêu trên của chính chủ thể. Uo đặc điểm vỂ tư cách chủ thể là quốc gia, dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết hay tổ chức quốc tế nên khái niệm ý chí của chủ thể khi thực hiện hành vi pháp luật quốc tế không phải theo nghĩa hành vi tâm lý mà là hành vi của các cơ quan hay thiết chế có thẩm quyền được thể hiện công khai thông qua các tuyên bố. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, hành vi pháp luật rất đa dạng, phong phú. Ví dụ, theo tính chất của hành vi có thể phân biệt một hành vi hợp pháp với hành vi bất hợp pháp; xét theo tiêu chủ thể của hành vi có thể có hành vi đơn phương, hành vi song phương, hành vĩ đa phương… Các hành vi pháp luât có thể đưa đến các hệ quả pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào mục đích và tính chất của mỗi hành vì.

Tóm lại, cớ nhiều dạng quan hệ pháp luật quốc tế khác nhau trong sinh hoạt quốc tế, tùy thuộc vào tính chất, mục đích, lĩnh vực hợp tác, nội dung hay chủ thể tham gia các quan hệ đó, ví dụ, có quan, hệ pháp luật trong các lĩnh vực chuyên môn cụ thể của luật quốc tế, như quan hê pháp luật ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, quan hệ pháp luật hàng không quốc tế, quan hệ pháp luật về hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm quốc tế; còn nếu căn cứ vào chủ thể quan hệ thì có thể phân biệt quan hệ pháp luật quốc tẽ’ của quốc gia, của tổ chức quốc tế…

Như vậy, các quan hệ pháp luật quốc tê’ có đặc trưng cơ bản bởi sự tổn tại của yếu tố trung tâm là quốc gia – chủ thể có chủ quyền và việc thực hiện quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia do thuộc tính chủ quyền chi phối đã tạo ra sự điều chỉnh khác biệt của luật quốc tê’ so với cơ chế điều chỉnh của luật quốc gia.

Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)