– Khẳng định sai. Bởi vì:

Trong đồng phạm mỗi thành viên đều cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình. Họ đều nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng mỗi người đều cố tình thực hiện, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.

Bên cạnh đó mỗi người trong đồng phạm đều biết cùng thực hiện với mình còn có người khác, nhận thức được hành vi nguy hiểm của người đó, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả hành vi của người đồng phạm khác.

Đa số các trường hợp, những người đồng phạm nhận thực được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và đều mong muốn cho hậu quả xảy ra, nên họ rất tích cực thực hiện hành vi của mình, đó là hình thức lỗi cô ý trực tiếp.

Tuy nhiên cũng có trường hợp những người trong đồng phạm tuy không mong muốn cho hậu quả xảy ranhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, nói cách khác, tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý gián tiếp.

Ví dụ: 2 cha con cùng chăng dây điện xung quanh chuồng gà để chống trộm, sau đó trộm vào bắt gà và bị điện giật chết. Nhứ vậy 2 cha con đồng phạm về tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp.

>> Xem thêm: Đồng phạm không có hình thức lỗi vô ý đúng hay sai? Tại sao?

 

Để phân tích rõ “khẳng định đồng phạm chỉ có hình thức lỗi cố ý trực tiếp” là sai. Luật LVN Group phân tích các quy định pháp lý làm rõ luận điểm trên như sau:

 

1. Thế nào là tội đồng phạm trong bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 (Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017)quy định: “Tội đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Tội đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt của người phạm tội cố ý có nhiều người tham gia. Với sự tham gia của nhiều người thì không thể chỉ có người thực hiện tội phạm mà có thể có người cùng thực hiện tội phạm hoặc có người giúp sức thực hiện tội phạm hoặc có người xúi giục thực hiện tội phạm hoặc có người tổ chức thực hiện tội phạm. Sự tham gia của nhiều người vào việc phạm tội có thể là đồng phạm và cũng có thể không phải là đồng phạm.

Cấu thành tội đồng phạm không được quy định trực tiếp cho từng tội danh. Dấu hiệu của các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức thực hiện tội phạm được quy định trong các quy phạm phần chung của Bộ luật hình sự, các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành đồng phạm là các dấu hiệu định tội cho trường hợp phạm tội của người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức thự hiện tội phạm.

 

2. Dấu hiệu pháp lý của tội đồng phạm

Trước đây, khi xem xét dấu hiệu pháp lý của đồng phạm bao gồm dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan. Trong đó, dấu hiệu khách quan bao gồm cả dấu hiệu của chủ thể tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, do vậy, cần xem xét, nghiên cứu dấu hiệu này một cách độc lập, qua đó có góc nhìn toàn diện hơn khi xem xét trách nhiệm của cá nhân và pháp nhân trong vụ án đồng phạm.

Về dấu hiệu chủ thể:

Để có thể coi là đồng phạm, điều kiện đầu tiên về chủ thể thì phải có sự tham gia của ít nhất hai người trở lên vào việc thực hiện một tội phạm và những người này phải có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm. Nghĩa là những người này đạt đủ tuổi theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 và không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không phải là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội đơn lẻ.

Đối với vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại: Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại với 33 tội danh được liệt kê tại Điều 76. Về điều kiện chủ thể của tội phạm pháp nhân thương mại thì phải là tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, có điều kiện, tiêu chí cụ thể; và về nguyên tắc, khi thỏa mãn các dấu hiệu khách quan và chủ quan trong đồng phạm, thì tất cả các hành vi triển khai thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của pháp nhân, hành vi giúp đỡ tạo điều kiện cần thiết nhằm hỗ trợ cho pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm đều được coi là đồng phạm.

Về dấu hiệu khách quan:

Những người đồng phạm phải cùng thực hiện một tội phạm. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm có thể đều thực hiện hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng cũng có thể họ chỉ thực hiện một phần trong chuỗi hành vi để tạo một hành vi vi phạm tội thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm.

Mọi người đồng phạm có thể cùng tham gia thực hiện tội phạm bởi một loại hành vi, nhưng cũng có thể tham gia với những hành vi khác nhau. Hành vi của người này bổ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu quả hơn.

Hành vi tham gia thực hiện một tội phạm có thể là: Hành vi trực tiếp thực hiện, hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Nếu không có một trong bốn loại hành vi này thì không được coi là cùng thực hiện tội phạm và vì thế cũng không phải là đồng phạm.

Hành vi của mỗi người đồng phạm có mối quan hệ nhân quả đối với hậu quả chung của tội phạm, hậu quả chung của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng tham gia thực hiện tội phạm đem lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của những người khác thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.

Về dấu hiệu chủ quan:

Những người đồng phạm đều cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện như sau:

– Về lý trí: Mỗi người đồng phạm đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Luật hình sự không đòi hỏi là mỗi người phải biết được cụ thể về số lượng và hành vi của những người đồng phạm khác mà chỉ cần họ nhận thức được có sự tham gia của người khác và hành vi của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cùng phối hợp để thực hiện một tội phạm. Và trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và đều thấy trước hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.

– Về ý chí: Những người đồng phạm khi thực hiện hành vi đều mong muốn cùng thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả chung của tội phạm xảy ra.

Việc xác định hành vi, dấu hiệu chủ quan của pháp nhân thương mại sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ quan của những con người cụ thể đại diện cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân và giải quyết theo nguyên tắc thông thường như trường hợp đồng phạm giữa cá nhân với cá nhân.

Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội trong đồng phạm:

Trong đồng phạm thì mục đích phạm tội và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, trong một số cấu thành tội phạm có quy định dấu hiệu mục đích phạm tội, động cơ phạm tội là dấu hiệu của tội phạm cụ thể thì để xác định có đồng phạm của tội phạm đó đòi hỏi phải xác định được tất cả những người đồng phạm đều có chung mục đích phạm tội, động cơ phạm tội đó, hoặc những người tham gia phạm tội không có cùng mục đích phạm tội, động cơ phạm tội nhưng đã biết và tiếp nhận mục đích, động cơ phạm tội của nhau.

>> Xem thêm: Phân tích các dấu hiệu của đồng phạm? Cho ví dụ về đồng phạm?

 

3. Những hành vi không được coi là đồng phạm

Trong bộ luật hình sự năm 2015 có một số hành vi liên quan đến tội phạm nhưng không coi là hành vi đồng phạm, bởi những hành vi đó không thỏa mãn dấu hiệu đồng phạm. Đó là hành vi che dấu tội phạm và hành vi không tố giác tội phạm. Hai hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định rõ là hai tội phạm độc lập với các trường hợp đồng phạm.

Thứ nhất, Hành vi che giấu tội phạm

Căn cứ theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thì hành vi che giấu tội phạm là hành vi “không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấy người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội”

Đặc điểm của hành vi:

– Không có sự bàn bạc, thỏa thuận, hứa hẹn trước giữa người có hành vi che giấu và người được che giấu

– Hành vi che giấu được thực hiện sau khi tội phạm đã kết thúc

– Lỗi luôn là lỗi cố ý trực tiếp

Pháp luật hiện hành không coi hành vi che giấu tội phạm là hành vi đồng phạm mà coi đây là hành vi có liên quan đến tội phạm. Trong những trường hợp nhất định, hành vi che giấu tội phạm được quy định là tội che giấu tội phạm (Điều 289 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Thứ hai, Hành vi không tố giác tội phạm

Căn cứ theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hành vi không tố giác tội phạm là hành vi “Biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác”

Đặc điểm của hành vi này đó là:

– Hành vi này có thể xảy ra ở giai đoạn tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc tội phạm đã kết thúc.

– Hành vi luôn dưới dạng hành vi không hành động

– Lỗi luôn là cố ý trực tiếp

Tương tự như hành vi che giấu tội phạm thì hành vi này được xác định liên quan đến tội phạm, trong một số trường hợp không tố giác được quy định là tội “Không tố giác tội phạm” (Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015).

 

4. Đồng phạm có các hình thức lỗi nào?

Để có đồng phạm, khi thực hiện một tội phạm, những người đồng phạm phải thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Đồng phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định …”là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Những người tham gia trong đồng phạm bao giờ cũng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Lỗi cố ý này thể hiện ở chỗ những người trong đồng phạm khi tham gia vào việc thực hiện hành vi phạm tội , họ đều nhận thức được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và biết người đồng phạm khác cũng có hành vi nguy hiểm như thế; thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình gây ra cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện và họ cũng mong muốn hậu quả chung xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.

Như vậy, lỗi cố ý trong đồng phạm có thể là lỗi cố ý trực tiếp và cũng có thể là lỗi cố ý gián tiếp. Nếu những người tham gia thực hiện tội phạm đều nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và nhận biết được tính nguy hiểm của hành vi cho người đồng phạm khác, họ đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm và cùng mong muốn cho hậu quả xảy ra thì đó là lỗi cố ý trực tiếp. Xem thêm: Lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp khác nhau như thế nào ?

Những người tham gia thực hiện tội phạm nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi này mà mình thực hiện và cũng biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm như mình, họ đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia và họ cũng có ý thức để mặc cho hậu quả của tội phạm xảy ra, đó chính là lỗi cố ý gián tiếp.

Ví dụ: A được người nhà đưa vào bệnh viện cấp cứu do bị bệnh nặng. B và C là hai bác sĩ trực ban đã bàn nhau sách nhiễu đòi hối lộ của gia đình A. Khi cùng nhua có hành vi nhiễu sách này, cả B và C đều ý thức được rằng nếu không cấp cứu kịp thời, thì A có thể sẽ chết nhưng với mục đích muốn vòi tiền, nên B và C đã cố tình níu kéo, trì hoãn những thao tác nghề nghiệp cần thiết. Hành vi đó dẫn đến hậu quả là A bị thiệt mạng. Trường hợp này b và C là đồng phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp.

Nếu có bất kỳ vướng mắc nào về vấn đề này hoặc các vấn đề pháp lý khác xin vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua số điện thoại1900.0191 để được hỗ trợ và tư vấn. Luật LVN Group xin trân trọng cảm ơn!