“Ai chủ động thì bên đó có lợi thế hơn” điều này không hoàn toàn đúng nhưng phù hợp với các các lĩnh vực kinh doanh thương mại, là nơi cần sự nhạy bén, linh hoạt. Vì như thế, để chiếm được lợi thế, các doanh nghiệp luôn luôn tiếp cận khách hàng tiềm năng của mình như slogan của Prudential: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.

Đó là lý do tại sao các công ty tài chính luôn tìm kiếm những khách hàng tiềm năng bằng cánh tay nối dài của mình là đông đảo các cộng tác viên từ khắp mọi miền đất nước chứ không an phận bằng những nhân viên cốt cán tại trụ sở giao dịch. Việc chủ động tìm kiếm khách hàng, trao đổi, đàm phán và cuối cùng đi đến ký kết các loại hợp đồng với những điều khoản có lợi cho công ty tài chính là một trong những thế mạnh khiến cho hoạt động cho vay của các công ty này ưu việt hơn hẳn so với hoạt động cho vay tín dụng của các ngân hàng thương mại và cũng là ưu thế tuyệt đối của công ty tài chính với khách hàng của họ.

Trong khi các công ty tài chính dành được ưu thế tuyệt đối so với các khách hàng của mình dựa trên việc đưa ra những tiêu chí đánh giá khách hàng, đưa ra quyết định trong việc xác định lãi suất vay tiêu dùng cùng với các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng thì khuyết điểm lớn nhất của kịch bản này là khâu thu hồi nợ. Việc cho vay với các điều kiện vay tín chấp dưới chuẩn của các ngân hàng và việc người đi vay mất khả năng thanh toán là tình trạng chung của nhiều tổ chức tài chính dẫn đến tình trạng dư nợ tín dụng cao. Có ba phương thức đòi nợ chủ yếu vẫn được các công ty tài chính áp dụng cho những khoản nợ khó đòi, có nguy cơ không trả được và hiện nay ba phương thức này được sử dụng lần lượt cho từng đối tượng khách hàng tùy theo mức độ và khả năng chi trả.

Đầu tiên là “nhắc nhở” mang tính nhẹ nhàng nhất, tổng công ty sẽ gửi cho người vay tiền chậm trả một bản thông báo với nội dung đầy đủ về ngày giờ phải mang tiền đến ngân hàng để trả gốc, lãi cùng với một tệp đính kèm là cách tính tiền chậm trả (điều khoản phạt vi phạm hợp đồng cấp tín dụng). Chỉ như thế thôi cũng đã có thể khiến cho khách hàng phải e dè về việc kéo dài thêm thời gian mà nhanh chóng trả tiền vay. Tất nhiên, phương pháp này chỉ có hiệu quả khi kèm theo hai điều kiện bắt buộc: Một là khách hàng đang có sẵn tiền mà chưa trả hoặc có khả năng để gom tiền để trả cho bên cho vay; Hai là khách hàng phải có một sự “tín nhiệm” nhất định với bên cho vay (đến đây mới thấy việc đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng không hề thừa thải, vừa để xác định lãi, vừa để xác định khả năng thu hồi vốn). Như đã nói về hai điều kiện trên thì phương pháp này tỏ ra không hiệu quả với những kẻ đi vay đang gặp khó khăn về tài chính mà không còn khả năng chi trả và phản tác dụng với những kẻ có tính “ì” cao.

Nếu như phương pháp đầu tiên thất bại thì cũng là lúc các công ty tài chính sẽ phải đẩy mạnh hoạt động thu hồi nợ và tính chất của vụ việc vì thế cũng nghiêm trọng hơn nhiều so với một bản thông báo. Quay trở về với những cộng tác viên năng nổ tìm kiếm thị trường, nguồn khách hàng mới, giờ đây chính họ trở lại với một vai trò hoàn toàn khác_những nhân viên bộ phận thu hồi nợ cho công ty. Với tư cách của một người đi vay nợ mà chưa trả được liệu một cá nhân có thể yên tâm làm ăn sinh sống khi một ngày nhận được từ 10 đến 20 cuộc điện thoại từ những số máy khác nhau nhận mình là nhân viên ngân hàng, công ty tài chính này nọ yêu cầu đến đúng ngày giờ trả nợ nếu không thi sẽ….Thậm chí có những số máy còn tự nhận mình là nhân viên pháp chế, luật sư gọi đến do nhận ủy thác từ phía tổ chức tín dụng. Kịch bản này cứ lặp đi lặp lại và khi gọi lại thì luôn luôn không liên lạc được. Thử hỏi nếu vị trí của họ thật sự quan trọng như miêu tả thì cớ sao lại sử dụng “sim rác” để đưa ra yêu sách.

Nếu như từ điển tiếng Việt giải thích “khủng bố là hoạt động phá hoại, đe dọa bằng lời nói, hình ảnh hoặc video giết người do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện làm thiệt mạng người gây hoang mang khiếp sợ cho tâm lý hoặc tổn thất cho xã hội và cộng đồng, nhằm mục đích chính trị hoặc tôn giáo” và nếu như BLHS cũng chỉ dành quy định cho tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân thì hành vi này được xem là “khủng bố tinh thần người khác”. Không bàn đến cơ chế pháp luật để xử phạt hành chính đối với những kẻ cho chẳng thể tìm ra thì việc ngăn chặn những tin nhắn, cuộc gọi cũng là một việc cực kì khó, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, công tác và học tập của người có nợ.

Tố Hữu viết: “Lẽ nào vay mà không trả”, về mối quan hệ nhân sinh “vay” và “trả” đó đã là quy luật của xã hội, huống chi đây lại là một quan hệ kinh tế và xét ở một khía cạnh khác nó là một phạm trù đạo đức. Vay mà không trả là vong ân bội nghĩa, cách hành xử của kẻ “ăn xổi ở thì” và là biểu hiện của loại người bất nhân bất nghĩa. Trong mối quan hệ tín chấp, dựa trên chính sự tín nhiệm của khách hàng, các công ty tài chính đã giải quyết được những khó khăn nhất thời cho người đi vay mà không cần bất kì sự đảm bảo nào về mặt tài sản và điều kiện vay thì luôn dưới chuẩn của các ngân hàng thương mại thì ở một giới hạn nào đó việc khách hàng thực hiện đúng nội dung đã đặt bút cam kết thỏa thuận cũng là một hành vi biểu hiện của uy tín trong một mối quan hệ dân sự.

Tuy nhiên, cũng có những điều kiện khách quan khiến cho người đi vay không thể trả được chính khoản nợ và lãi mà họ đã vay và uy tín của họ đã bị đánh đổi. Nhưng liệu có thật sự công bằng khi các công ty tài chính lại biến mình trở thành phần tử quấy rối đến cuộc sống riêng tư cá nhân và gia đình của người đi vay. Liệu có nên đẩy một người đã không còn khả năng chi trả đang tự cố gắng khắc phục bằng cách đi làm việc để có tiền trả nợ lại bị “dọa” cho đến lo lắng, bất an đến không thể tiếp tục lao động một cách bình thường. Bất tín đã là một cảm giác tội lỗi và sự bất an khiến cuộc sống và khả năng tạo ra thu nhập đi xuống. Chính bản thân người đi vay cũng có một cảm giác bị lừa khi chính những lời “mời chào” vay lãi suất thấp, nhiều ưu đãi, thủ tục nhanh gọn đã được đổi lại thành những ngôn từ hăm dọa đáng sợ về những vấn đề họ có thể phải gặp phải khi nợ quá hạn.

Dường như là chưa đủ khi bàn về việc các công ty tài chính đòi nợ mà chưa nói đến hoạt động chuyển giao quyền yêu cầu đòi nợ của các công ty tài chính trong phương pháp này. Khi mà mua bán quyền đòi nợ là một giao dịch được pháp luật dân sự cho phép và kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê cũng được công nhận là một ngành nghề chính thống của nền kinh tế quốc dân thì việc có một bên thứ ba chuyên đứng ra nhận nợ là chuyện khá bình thường. Chỉ cần một thông báo cho khách hàng, một loại giấy tờ mang tính chuyển quyền đòi nợ, người đi vay hoàn toàn có thể bị “nắn gân” bởi những tổ chức đòi nợ thuê chuyên nghiệp. Nếu như đúng theo quy định của pháp luật thì họ sẽ ăn mặc lịch sự, nói chuyện đàng hoàng, ngày đến vài lần còn không thì đe dọa khởi tố hình sự “tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, theo dõi người nhà thậm chí còn gọi điện, nhắn tin đe dọa,…Bộ Luật Hình sự luôn có thái độ nghiêm khắc với hình hành vi đe dọa này với dấu hiệu đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản trong tội cưỡng đoạt tài sản. Chỉ cần bên đòi nợ này có những hành vi hình sự hóa những giao dịch dân sự thì cơ quan chức năng có thể vào cuộc để giải quyết dứt điểm những hành vi này.

Các công ty tài chính luôn luôn biết cách “phủi tay” khi tỏ thái độ không liên quan khi đã chuyển giao quyền đòi nợ cho bên thứ ba và người vay phải tự giải quyết với bên kia, công ty không còn là người trong cuộc để tham gia vào các khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, nếu xem xét thật kỹ quy trình trả nợ của những người đi vay bị ép vào thế cùng phải chạy vạy, thu gom hết tài sản để bán trả nợ tránh nguy cơ bị tấn công thì nơi họ trả tiền lại vẫn là địa điểm giao dịch của công ty tài chính và họ còn được nhận cả biên lai thanh toán tiền của công ty tài chính. Điều này phủ nhận giả thiết công ty tài chính đã bán nợ của họ thông qua một tổ chức khác. Cũng có nghĩa là giao dịch có thể có của công ty tài chính với tổ chức đòi nợ kia là một hợp đồng đòi nợ thuê hay còn gọi là ủy quyền đòi nợ. Khách hàng có thể bị “qua mặt” khi cả hai trường hợp đó đối với họ cũng không có gì khác nhau về kết quả, liệu về mặt pháp lý thì việc ủy quyền đòi nợ hay sử dụng dịch vụ đòi nợ thuê có thực sự an toàn cho công ty tài chính? Đương nhiên, nếu như những hoạt động đòi nợ kia có nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự, hành chính thì họ cũng không tránh khỏi việc liên đới chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước.

Và khi tất cả những thương lượng, thông báo thậm chí là đe dọa hết đi giá trị hiệu lực của loại “kịch bản” được “phóng tác” lại nhiều lần thì khởi kiện dân sự tại tòa án là bước cuối cùng để công ty tài chính có thể truy hồi được số tiền đã cho vay và “để chết” quá lâu chỗ khách hàng. Như đã phân tích ở trên thì đòi nợ là một quyền lợi chính đáng của chủ nợ, đó là một quyền tài sản được pháp luật dân sự bảo vệ thì việc khởi kiện để đòi lại tiền gốc và lãi vay là một quyền dân sự hợp pháp của công ty tài chính như những chủ nợ khác. Chỉ có điều pháp luật chỉ bảo vệ những điều đương nhiên đúng, chính vì bản thân có những “khuất tất” mà khởi kiện dân sự mới là biện pháp cuối cùng vị “chủ nợ” này dùng đến cứu cánh cho những sai lầm mang tính hệ thống. Vấn đề ở đây là gì khi họ nắm trong tay hợp đồng cấp tín dụng, những chứng cứ ghi nhận những đợt trả tiền của khách hàng và việc nợ là có thật. Lúc này, bí mật về loại “lãi suất thỏa thuận” sẽ được phơi bày trước công chúng, cả những người đang có ý định vay tiêu dùng, cả cơ quan nhà nước và báo giới. Cú chót này khiến cho tòa án phải ra bản án buộc người vay phải trả nợ nhưng cái giá của nó là uy tín của một doanh nghiệp đang ăn nên làm ra và sự thật là sự thừa nhận phũ phàng từ phía ngân hàng thương mại về việc “đẻ ra con gà đẻ trứng vàng” là từ việc vi phạm trắng trợn quy định về lãi suất tối đa mà pháp luật dân sự đã quy định. Nghiễm nhiên, mặc dù vẫn phải trả tiền nhưng nhờ có sự can thiệp của pháp luật mà người đi vay thật sự hưởng lợi từ việc phần lãi suất vượt quá lãi suất tối đa sẽ vô hiệu theo đúng tinh thần luật pháp.

Đó vốn không phải là tất cả những gì các công ty tài chính sẽ phải trả giá từ chính sự “dễ dãi” trong hoạt động cấp tín dụng của mình. Cứ cho là bản án của tòa án sau một thủ tục tố tụng kéo dài mấy tháng trời có hiệu lực và công ty tài chính có thể đường đường yêu cầu thi hành án dân sự đối với bản án trên thì cũng luôn luôn có những ngoại lệ. Một người vay tiền không có gì (nhà ở đi thuê, công việc không ổn định,…), cái sự “không có gì” đó sẽ trở thành một thứ vũ khí vô cùng đáng sợ với các chủ nợ và khiến cho công ty tài chính đó có một thứ khiếm khuyết không thể vượt qua trong hoạt động cho vay tiêu dùng.

Trên đây là một số quan điểm của cá nhân về những khiếm khuyết trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại các công ty tài chính ở Việt Nam hiện nay. Mọi ý kiến thắc mắc xin liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến, gọi: 1900.0191để được hỗ trợ.

Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!

Trân trọng./.

Chuyên viên tư vấn luật:  Ngô Trang – Bộ Phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group