1. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội

Trước khi được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đã được quy định trong BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999.

Theo khoản 1 Điều 231 BLHS năm 1985: “Kiểm sát viên, Điều tra viên nào cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thì bị phạt…”. Như vậy, theo quy định của BLHS năm 1985, tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” là hành vi của Kiểm sát viên hoặc Điều tra viên cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Hình phạt đối với tội này được quy định gồm có 02 khung: Mức hình phạt thấp nhất (khoản 1) là cải tạo không giam giữ 06 tháng và mức hình phạt cao nhất (khoản 2) là phạt tù đến 07 năm. Ngoài ra, hai trường hợp có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng là “truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia” hoặc “gây hậu quả nghiêm trọng”.

Khoản 1 Điều 293 BLHS năm 1999 quy định: “Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt…”. Dấu hiệu “người nào có thẩm quyền” được sử dụng thay thế cho dấu hiệu “Kiểm sát viên, Điều tra viên”; dấu hiệu “truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội”, được sử dụng thay thế cho dấu hiệu “cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” trong BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” trong BLHS năm 1999 bổ sung thêm 01 khung hình phạt tăng nặng (khoản 3). Theo đó, mức hình phạt đối với tội này cũng được tăng lên; mức hình phạt thấp nhất đối với tội này là 01 năm tù (khoản 1), mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù (khoản 3). Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị áp dụng hình phạt bổ sung “bắt buộc” là “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.

Trong BLHS năm 2015, tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” được quy định tại Điều 368, với nội dung là hành vi của “người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội”. Dấu hiệu pháp lý của tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” trong BLHS năm 2015 không thay đổi so với quy định của BLHS năm 1999, có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng như sau:

Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (điều 368)

Điều 368. Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội

1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Đối với 02 người đến 05 người;

c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

đ) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;

e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Đối với 06 người trở lên;               

b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

d) Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

2. Về mặt chủ thể của tội phạm

– Về mặt chủ thể: Theo quy định của điều luật, chủ thể của tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” là chủ thể đặc biệt, là “người có thẩm quyền” thực hiện hành vi tố tụng hình sự là truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Theo Điều 368 BLHS năm 2015, đặc biệt là nội dung mô tả các dấu hiệu định khung hình phạt: “Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng” (khoản 2), “dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (khoản 3) và trong mối tương quan giữa tội này với tội “Ra bản án trái pháp luật” (Điều 370 BLHS năm 2015), thì hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368 BLHS năm 2015) không bao gồm việc kết án (đối với người không có tội). Nói cách khác, người có thẩm quyền thực hiện hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chỉ là người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng hình sự theo quy định tại các điều 153, 163, 164 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Đó là người có thẩm quyền ra các quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra đề nghị truy tố và người có thẩm quyền ra quyết định truy tố (bị can) theo quy định tại các Điều 179, 232, 236 BLTTHS năm 2015.

 

3. Về mặt khách quan của tội phạm

– Về mặt khách quan: Trong trường hợp bình thường, hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người là hành vi của người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra, xác minh, làm rõ các dấu hiệu của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác liên quan làm căn cứ cho việc buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã thực hiện. Đối với trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, các hoạt động mà người có thẩm quyền trong trường hợp này thực chất là những hành vi trái pháp luật, làm cho người không có tội phải chịu trách nhiệm hình sự một cách sai trái, vô lý.

BLHS cũng như BLTTHS năm 2015 không quy định thế nào là người không có tội. Tuy nhiên, thông qua các quy định của BLHS cũng như các quy định liên quan của BLTTHS có thể hiểu rằng không có tội là người không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người không có tội có thể là: Người không có bất kỳ hành vi nguy hiểm nào cho xã hội. Các hành vi mà họ thực hiện không cấu thành bất cứ tội phạm nào trong BLHS; người thực hiện hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nên hành vi không cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra, người không có tội còn là người thực hiện hành vi phạm tội nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc các trường hợp khác mà theo quy định của BLHS họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Các trường hợp người không có tội được phân tích trên đây cũng thuộc những trường hợp mà BLTTHS quy định không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 157 BLTTHS năm 2015. Theo khoản 1 Điều 158 BLTTHS năm 2015, khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015 (tức là có căn cứ xác định người có hành vi gây thiệt hại là người không có tội) “thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự…”. Trường hợp, vụ án đã được khởi tố, điều tra và có bản kết luận điều tra (đối với người không có tội), thì “Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án…”. Do đó, khi đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ vụ án hình sự thì người có thẩm quyền cũng không còn căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người liên quan (người không có tội).

Như vậy, hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chỉ là các hành vi của người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra quyết định khởi tố bị can đối với người mình biết rõ là không phạm tội hoặc trong quá trình điều tra không ra quyết định đình chỉ điều tra mà ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố đối với người mà mình biết rõ là không phạm tội. Hành vi phạm tội này còn có thể là hành vi của người có thẩm quyền ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng mặc dù biết rõ người đó không phạm tội hoặc không ra quyết định đình chỉ vụ án mà quyết định truy tố một người trước Tòa án bằng bản cáo trạng, mặc dù biết rõ người đó không phạm tội…

 

4. Về mặt chủ quan của tội phạm

– Về mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” là lỗi cố ý trực tiếp. Dấu hiệu “biết rõ là không có tội” thể hiện sự nhận thức rõ của người phạm tội về hành vi của mình là trái pháp luật, không có căn cứ; đối tượng của hành vi là người không có tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có thể có các động cơ khác nhau như tư thù, vụ lợi hoặc hống hách, coi thường pháp luật… Tuy nhiên, động cơ phạm tội không được quy định là dấu hiệu định tội của tội phạm này. Việc đánh giá tính chất của động cơ phạm tội có thể được xem xét khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

Tội “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” trong BLHS năm 2015 có 03 khung hình phạt với mức hình phạt khá nghiêm khắc. Khung hình phạt cơ bản (khoản 1) có mức hình phạt là “phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2, khoản 3 có mức hình phạt tối thiểu là 5 năm tù và 10 năm tù, nặng hơn so với mức hình phạt tại Điều 293 BLHS năm 1999). Các dấu hiệu định khung hình phạt đối với tội này cũng được sửa đổi và bổ sung thêm nhiều dấu hiệu mới nhằm áp dụng luật, phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 368), được bổ sung hai dấu hiệu định khung hình phạt mới là “b) Đối với từ 02 người đến 05 người; c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu”. Dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” (điểm b khoản 2 Điều 293 BLHS năm 1999) được thay bằng các dấu hiệu: “d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; đ) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (khoản 2 Điều 368 BLHS năm 2015). Dấu hiệu “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” (khoản 3 Điều 293 BLHS năm 1999) được thay bằng các dấu hiệu: “a) Đối với 06 người trở lên; b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; d) Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát” (khoản 2 Điều 368 BLHS năm 2015). Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc là “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm (tương tự quy định tại Điều 293 BLHS năm 1999).

 

5. Về khách thể của tội phạm

Khách thể: của tội này là chủ thể đặc biệt chỉ bao gồm những người có thẩm quyền trong việc thực hiện hành vi tố tụng là truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Đó là người có quyền ra quyết định khởi tố bị can; người có quyền đề nghị truy tố và người có quyền quyết định truy tố bị can trước tòa.

Hành vi khách quan: Truy cứu trách nhiệm hình sự không có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự đã khởi tố, kết luận điều tra, truy tố đối với người mà mình biết rõ là không có tội.

Một người được coi là không có tội nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 157 Bộ luật hình sự, đó là: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá.

Điều luật quy định “ biết rõ là không có tội” tức là, người phạm tội phải biết rõ người mà mình truy cứu trách nhiệm hình sự là không là không có tội; nếu do trình độ nghiệp vụ non kém hoặc vì lý do khách quan khác mà người có thẩm quyền truy cứu trách nhệm hình sự một người mà không biết rõ không có tội thì không phạm tội này.

Lỗi: Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

 

6. Về hình phạt

– Khung hình phạt cơ bản đối với người phạm tội Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là bị phạt tù từ 01 đến 05 năm.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

+ Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

+ Đối với 02 người đến 05 người;

+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an nin, trật tự, an toàn xã hội.

– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm;

+ Đối với 06 người trở lên;

+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

+ Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát.

– Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 đến 05 năm.