1.Việc hỏi người làm chứng tại phiên tòa hình sự được tiến hành thế nào?
>> Xem thêm: Quy định mới nhất về bảo vệ người làm chứng trong vụ án hình sự ?
Việc hỏi người làm chứng tại phiên tòa hình sự được quy định tại Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Theo đó:
1. Việc hỏi phải được tiến hành riêng đối với từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.
2. Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
3. Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
4. Trường hợp có căn cứ xác định người làm chứng, người thân thích của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm thì Hội đồng xét xử phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của Bộ luật này và pháp luật khác có liên quan.
5. Trường hợp cần thiết, Tòa án quyết định hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông.
2. Phương thức tiến hành hỏi người làm chứng
>> Xem thêm: Phân tích một số chiến thuật lấy lời khai của người làm chứng ?
Để đảm bảo cho lời khai của người làm chứng được khách quan, không chịu ảnh hưởng của những người khác, điều luật quy định Hội đồng xét xừ phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Điều đó có nghĩa là Hội đông xét xử phải cách ly người làm chứng trước khi người đó khai báo trước Tòa.
Trước khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Bởi vì về mặt tâm lý người làm chứng sẽ chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ đó khi khai báo, lý giải những tình tiết mà họ biết, sự thật khách quan có thể bị sai lệch. Điều này giúp cho người xét hỏi đánh giá đúng đắn, khách quan lời khai của người làm chứng. Đồng thời, khi xét hỏi người làm chứng, chủ tọa phiên tòa cũng có thể cách ly bị cáo, nếu thấy rằng bị cáo có mặt thì người làm chứng không dám khai đúng sự thật. Trong trường hợp này, sau khi xét hỏi người làm chứng, chủ tọa phiên tòa phải cho bị cáo biết nội dung lời khai của người làm chứng.
3. Nội dung hỏi người làm chứng
>> Xem thêm: Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lấy lời khai của người làm chứng ?
Trước khi đưa ra câu hỏi, Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bào vệ quyền lợi của đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng. Khi được chủ tọa phiên tòa đông ý, bị cáo có thê hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
Trường hợp người làm chứng có lời khai mâu thuẫn nhau về một tình tiết thì Hội đổng xét xừ có thể thực hiện việc đối chất giữa họ ngay tại phiên tòa.
Sau khi người làm chứng đã khai xong, họ được ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm nhưng nếu thấy sự có mặt của họ không còn cần thiết nữa, thì chủ tọa phiên tòa có thể cho họ về
.Bảo về quyền của người làm chứng
Trong trường hợp cần thiết phải bảo đàm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ như có dấu hiệu hành hung, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, trả thù do người làm chứng khai báo bất lợi cho người tham gia tố tụng… thì Hội đông xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ ngay tại phiên tòa và sau phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Đây là quy định mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự khuyến khích người làm chứng khai báo và là quyền của người làm chứng khi họ thực hiện nghĩa vụ khai báo của mình.
4. Kỹ năng xét hỏi người làm chứng
Tại phiên tòa, đối với những vụ án có nhiều người làm chứng, HĐXX phải tách riêng từng người để hỏi nhằm đảm bảo tính khách quan trong lời khai của họ, không để lời khai của người làm chứng này ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng khác. Nếu HĐXX không thực hiện vấn đề này thì KSV đề nghị HĐXX khắc phục kịp thời. Việc lựa chọn người làm chứng nào để hỏi trước, người làm chứng nào để hỏi sau cũng có ý nghĩa trong việc làm rõ sự thật khách quan về những tình tiết có liên quan của vụ án.
Cũng như những người tham gia tố tụng khác, người làm chứng thường được HĐXX cho trình bày trước những điều mà họ biết về các tình tiết của vụ án, về mối quan hệ của họ với bị cáo và các đương sự khác. Vì vậy, KSV phải chú ý lắng nghe, ghi chép lại những vấn đề có liên quan, đặc biệt là các tình tiết có ý nghĩa trong việc buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà người làm chứng cung cấp. Sau khi HĐXX hỏi, nếu thấy điểm nào chưa được làm rõ thì KSV tiếp tục hỏi, yêu cầu người làm chứng trình bày làm rõ thêm. Trường hợp lời khai của những người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc có mâu thuẫn với lời khai của bị hại thì KSV đề nghị HĐXX cho phép được gọi những người này để đối chất ngay tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ những tình tiết còn mâu thuẫn.
Khi tham gia xét hỏi người làm chứng, KSV cần chú ý trạng thái tâm lý của họ để đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề thật cụ thể giúp họ dễ trả lời. Đối với người làm chứng là người dưới 18 tuổi thì tùy trường hợp có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi. Khi người làm chứng xuất trình chứng cứ, tài liệu mới tại phiên tòa, KSV cần kiểm tra, xét hỏi về nguồn gốc nội dung để có kết luận về tính hợp pháp và tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu đó. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà chứng cứ, tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì KSV đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để xác minh.
Theo quy định tại các điều 312, 314 BLTTHS năm 2015, trong quá trình tham gia xét hỏi người làm chứng tại phiên tòa, KSV có thể đề nghị HĐXX, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng có liên quan đến vụ án nhưng không thể đưa đến phiên tòa được hoặc xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Trong trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc bị cáo tố giác bị bức cung, dùng nhục hình, KSV có thể đề nghị HĐXX quyết định việc cho xem, nghe nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa (Điều 313 BLTTHS năm 2015). Kiểm sát viên có thể yêu cầu HĐXX triệu tập cán bộ bị tố cáo bức cung, dùng nhục hình đến phiên tòa để hỏi rõ (hoặc đối chất) về việc có bức cung, dùng nhục hình hay không?
Trong quá trình xét hỏi, sau khi đã hỏi mà có vấn đề cần hỏi bổ sung để làm rõ thì KSV đề nghị HĐXX cho hỏi thêm theo quy định tại Điều 318 BLTTHS năm 2015 để làm rõ.
5. Hỏi người làm chứng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 BLTTHS 2015, thì người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Khi xác định người làm chứng, Cơ quan tiến hành tố tụng cần phân biệt với người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS.
Điều kiện cần và đủ để một người trở thành người làm chứng là người đó phải là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì dù họ có biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm cũng không thể là người làm chứng.
Thực tiễn xét xử, việc xác định người làm chứng trong một số vụ án còn bật cập, mặc dù một người biết rất rõ những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án nhưng lại không được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định là người làm chứng và triệu tập đến làm chứng hoặc triệu tập họ với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nên họ không đến theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cũng không thẻ áp dụng biện pháp dẫn giải họ, vì theo quy định tại Điều 65 BLTTHS thì họ không bị áp giải nếu vắng mặt không có lý do chính đáng, trong khi đó thì đối với bị hại hoặc người đại diện của họ lại bị áp giải nếu cố tình không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Hiện nay, tình trạng người có hành vi phạm tội nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhất là trong các vụ án có đông người tham gia nhưng không có đồng phạm, thì hầu hết cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chứ không xác định họ là người làm chứng. Để khắc phục tình trạng này, một số cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã “sáng kiến” trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng của họ vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, vừa là người làm chứng để buộc họ phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, nếu cố tình không có mặt hoặc không vì lý do bất khả kháng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng Điều 67 BLTTHS để áp giải họ. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên xác định bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà đồng thời họ là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án thì phải xác định họ là người làm chứng, ngoài tư cách mà họ là bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đây cũng là kỹ năng cần thiết của người tiến hành tố tụng nhẵm bảo đảm sự có mặt của những người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án. Tuy nhiên, tại phiên tòa khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa và các chủ thể được tham gia xét hỏi những người này cần nói rõ là hỏi họ với tư cách là người làm chứng.
Việc xét hỏi người làm chứng nhằm xác định sự thật của vụ án là rất quan trọng. Do đó, chủ tọa phiên tòa sau khi giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng, phải yêu cầu người làm chứng phải cam đoan khai trung thực và trước khi người làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa quyết định biện pháp để cho những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan. Trường hợp lời khai của bị cáo và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa phải quyết định cách ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
Khi xét hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Theo quy định này thì việc cách ly người làm chứng là một việc làm bắt buộc chứ không phải như BLTTHS cũ.
Thực tiễn xét xử cho thấy hầu như các Toà án thực hiện chưa đúng quy định tại khoản Điều 304 và khoản 1 Điều 311 BLTTHS về việc cách ly người làm chứng mà thường để những người làm chứng ngồi chung với người tham gia tố tụng khác trong phòng xử án, người làm chứng này nghe được lời khai của người làm chứng khác, thậm chí khi lời khai của người làm chứng này mâu thuẫn với lời khai của người làm chứng khác, chủ toạ phiên toà còn chất vấn người làm chứng vì sao lại khai khác nhau hoặc có nghe người làm chứng trước khai không. Mặt khác, phòng xử án và trang thiết bị của nhiều Toà án hiện nay cũng không có đủ điều kiện để cách ly người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 304 và khoản 1 Điều 311 BLTTHS. nhất là những vụ án có hàng chục, thậm chí hàng trăm người làm chứng. Vì vậy, theo chúng tôi chỉ cần cách ly người làm chứng trong những trường hợp cần thiết như quy định tại khoản 2 Điều 204 BLTTHS cũ và đề nghị sửa đổi bổ sung Điều 311 BLTTHS 2015 cho phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 204 BLTTHS cũ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 311 BLTTHS thì khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ toạ phiên toà yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ biết. Ví dụ: Người làm chứng là người bị mù nhưng không điếc nên họ nghe được các bị cáo bàn với nhau đến nhà ông X để cướp tài sản. Sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi thêm người làm chứng.
Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi trực tiếp người làm chứng về các vấn đề mà họ khai có liên quan đến bị cáo.
Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
Trường hợp có căn cứ xác định người làm chứng, người thân thích của họ bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm thì Hội đồng xét xử phải quyết định biện pháp bảo vệ họ theo quy định của pháp luật. Các chủ thể có quyền hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông (hỏi trực tuyến) trong trường hợp cần thiết nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý .
Cũng như đối với việc hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nếu người làm chứng không trả lời hoặc không khai tại phiên toà thì chủ toạ phiên toà có thể công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 5 Điều 66 BLTTHS, người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 383 BLTTHS về tội từ chối khai báo, nếu khai gian dối thì phải chịu trách nhiệm theo Điều 382 BlHS về tội khai báo gian dối. Vì vậy, chủ toạ phiên toà cần giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ trước khi hỏi để người làm chứng thấy được trách nhiệm của mình khi tham gia phiên toà. Trường hợp người làm chứng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 211 BLTTHS cũ, thì trong trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy cô giáo giúp đỡ để hỏi, vì thực tiễn xét xử cho thấy, người làm chứng không phải bao giờ cũng là người đã thành niên mà không ít trường hợp họ là người chưa thành niên, nhưng người chưa thành niên ở vào độ tuổi từ 15 trở lên có thể không cần phải có người giúp đỡ để hỏi mà chủ yếu là những người ở độ tuổi từ dưới 15 tuổi, nhất là đối với những em nhỏ dưới 10 tuổi thì việc cần phải có sự giúp đỡ của cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy cô giáo là rất cần thiết. Tuy nhiên, những người này chỉ giúp người làm chứng khai báo tại phiên toà chứ không thể khai thay người làm chứng được. Tuy nhiên, cả Điều 66 và Điều 311 BLTTHS 2015 đều không có quy định đối với người làm chứng là người chưa thành niên.
Thực tiễn xét xử còn có người làm chứng là người có nhược điểm về thể chất nhưng vẫn có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án, nhưng vì không có khả năng tự mình khai báo về những tình tiết của vụ án. Ví dụ: Một người vừa câm vừa điếc và cũng là người làm chứng duy nhất nhìn thấy hành vi phạm tội của bị cáo, người này có thể thông qua người thân để trình bày bằng ký hiệu và người biết ký hiệu của người này sẽ “phiên dịch” lại cho Hội đồng xét xử.
Tuy nhiên, Điều 66 BLTTHS 2015 chỉ quy định người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn, thì không được làm chứng nhưng Điều 311 không có quy định trường hợp người làm chứng tuy có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng vẫn có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án và có khả năng khai báo đúng đắn, thì có cần người giúp đỡ họ để khai không ?
Vì vậy, có ý kiến cho rằng, Điều 66 và Điều 311 BLTTHS 2015 cần sửa đổi bổ sung theo hướng: “Nếu người làm chứng là người chưa thành niênhoặc là người có nhược điểm về thể chất thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi”.
Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải hỏi vì sao họ lại biết được tình tiết đó, nếu họ không trả lời được vì sao lại biết thì lời khai của người làm chứng đó không được dùng làm chứng cứ.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 311 BLTTHS, thì sau khi người làm chứng đã trình bày xong những tình tiết của vụ án thì ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm. Như vậy, trước khi hỏi người làm chứng thì người làm chứng không được có mặt trong phòng xử án. Vì vậy, trong phần mở đầu (phần thủ tục) phiên toà, sau khi chủ toạ phiên toà giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng thì chủ toạ phiên toà phải yêu cầu người làm chứng rời khỏi phòng xử án, khi nào chủ toạ yêu cầu mới trở lại để khai về những tình tiết của vụ án, trong thời gian người làm chứng không có mặt tại phòng xét xử, Toà án phải bố trí phòng đợi (có thể gọi là phòng cách ly) và không được để người làm chứng nghe thấy lời khai của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group