Nhận thức là thứ không thấy và không sờ được. Tuy nhiên, thiếu nó, những thứ thấy được và sờ được cứ rối tinh, rối mù lên. Chúng ta đều biết, nhận thức là sản phẩm quan trọng nhất của tư duy. Mà tư duy lại chính là cuộc sống của con người.

4 nội dung của nhận thức

Ở nước ta, công nghệ thông tin đang thực sự là một thứ mốt thời thượng. Sự nghiệp “tin học hóa” được triển khai rầm rộ không thua kém gì phong trào bình dân học vụ trước đây. Tuy nhiên, phong trào bình dân học vụ có vẻ thiết thực hơn: nó nhắm vào những nhu cầu có thực và những mục tiêu được xác định rõ ràng. Với “phong trào công nghệ thông tin”, những điều ở cấp “bình dân học vụ” như vậy không phải bao giờ cũng được làm rõ. Xã hội ta đang đối mặt với các công nghệ thông tin và truyền thông (Information & Communication Technologies = ICT), giống như Ali Baba đứng trước kho báu. Chỉ có điều, Ali Baba thì có câu thần chú “Vừng ơi, hãy mở ra!”, còn xã hội ta hình như vẫn loay hoay trước cánh cửa im ỉm đóng.

Tuy nhiên, câu thần chú để mở kho báu ICT lại không thể nghe lén từ một lão phù thủy nào đó, nó nằm ngay trong nhận thức (vision) của chúng ta. Vậy thì, nội dung của nhận thức về ICT bao gồm những vấn đề gì?

Trước hết, chúng ta chỉ quen nói tới công nghệ thông tin (lnformation Technology = IT) hoặc tin học trong lúc đó thế giới lại chủ yếu nói về các công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Thông tin không gắn với truyền thông thì chẳng khác gì hàng hoá không gắn với việc phân phối trên thị trường. Vậy thì, thế giới tỏ ra có lý hơn: chữ ICT không phải chỉ IT ít là thứ có thể tạo ra động lực cho phát triển. Và, đó xin được coi là nội dung khởi đầu của nhận thức.

>> Luật sư tư vấn đăng ký bảo hộ độc quyền sở hữu trí tuệ Gọi: 1900.0191

Hai là, ICT là để thông tin và truyền thông, chứ không phải để làm điều ngược lại. Nếu chúng ta muốn xây dựng một xã hội khép kín và cát cứ thông tin, thì chớ nên làm bạn với ICT! ICT chắc chắn sẽ phản bội chúng ta, hoặc trong trường hợp ít xấu hơn, sẽ làm lãng phí tiền bạc của chúng ta. Đây xin được coi là nội dung quan trọng thứ hai của nhận thức (thứ hai là theo thứ tự được kể ra đây, chứ không phải theo mức độ quan trọng của vấn đề).

Ba là, ICT có thể tạo ra động lực cho sư phát triển vì các tính năng ưu việt của chúng. Các tính năng này tồn tại khách quan. Chúng ta chỉ có thể tận dụng các tính năng này phục vụ cho các mục tiêu phát triển, chứ không thể bắt chúng phải thay đổi theo ý muốn chủ quan của mình. Đây là nội dung quan trọng thứ ba của nhân thức.

Bốn là, nếu các tính năng của ICT là không thể thay đổi, thì cách tổ chức công việc của chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi được. Và “Trời không chịu đất, thì đất phải chịu trời”. Muốn tận dụng tối đa các tính năng ưu việt của ICT, chúng ta cần phải thay đổi cách thức tổ chức, điều hành công việc của mình cho phù hợp. Đây là nội dung quan trọng thứ tư của nhận thức.

8 tính năng ưu việt của ICT

ICT có khả năng lan toả rộng khắp và đa năng. Có thể áp dụng ICT cho rất nhiều hoạt động của con người từ nhu cầu cá nhân, đến việc kinh doanh và công việc của Nhà nước.

ICT là nhân tố cơ bản để xây dựng các mạng và cho phép những người kết mạng hưởng lợi ngày càng tăng khi việc sử dụng mạng ngày càng được mở rộng. ICT thúc đẩy việc phổ biến thông tin và tri thức bằng cách tách nội dung ra khỏi vị trí địa lý của chúng. Dòng chảy của thông tin vượt qua mọi sự ngăn cách địa lý, cho phép những cộng đồng dân cư ở vùng sâu, vùng xa hội nhập với mạng toàn cầu và làm cho thông tin, tri thức, văn hoá trở nên tiếp cận được về lý thuyết đối với mọi cá nhân.

Bản chất “số”(digital) và “thực tế ảo” (virtual) của nhiều sản phẩm và dịch vu ICT cho phép có được mức chi phí bằng 0 hoặc rất nhỏ bé. Việc nhân bản nội dung sẽ gần như là miễn phí bất kể dung lượng lớn bao nhiêu; chi phí phân phối và truyền thông cũng gần như bằng không. Kết quả là ICT có thể cắt giảm đến tối thiểu chi phí giao dịch.

Khả năng lưu trữ, gọi ra, sắp xếp, lọc, phân phối và chia sẻ thông tin liên tục của ICT có thể dẫn tới những lợi ích lớn trong hoạt động quản lý, cũng như trong việc sản xuất, phân phối và chiếm lĩnh thị trường. ICT có thể sắp xếp các công đoạn của quy trình công việc của sản xuất và cung ứng và làm cho quy trình ban hành quyết định, quy trình kinh doanh và giao dịch nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Do tính hiệu quả được nâng cao và chi phí được giảm thiểu, ICT là động lực thúc đẩy sự sáng tạo ra những sản phẩm, dịch vụ, cũng như các kênh cung ứng mới cho các ngành công nghiệp truyền thống, cũng như các loại hình kinh doanh sáng tạo, các ngành công nghiệp mới.

ICT hỗ trợ việc cắt giảm các khâu trung gian, chúng cho phép người dân tiếp cận trực tiếp được với các cơ quan chức năng khách hàng nhận được sản phẩm và dịch vụ trực tiếp từ nhà cung ứng gốc. Đây không chỉ là nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mà còn tạo ra cái gọi là “thị trường cho mỗi khách hàng”, “chính quyền cho mỗi người dân”, nghĩa là các tiềm năng của ICT được khai thác để đáp ứng nhu cầu và sở thích của các công dân, khách hàng trên cơ sở từng cá nhân một.

ICT mang tính toàn cầu. Bằng cách tạo ra và mở rộng các mạng, ICT có thể vượt qua mọi sự ngăn cách về văn hoá và địa lý tạo cơ hội cho mọi cá nhân và cộng đồng, bất luận họ sống ở nơi đâu trên trái đất, trở thành một phần hữu cơ của mạng kinh tế toàn cầu. Đây đồng thời là một thách thức đối với hệ thống chính sách, pháp luật và cấu trúc quan hệ giữa các quốc gia hiện nay.

Các tính năng này của ICT đối với chúng ta chẳng khác gì nguồn lợi vô tận trong lòng đại dương. Hứa hẹn rất nhiều nhưng chỉ với những ai biết cách khai thác và chịu trả giá cho việc xây dựng nguồn lực để khai thác. Trường hợp ngược lại, tai họa có thể khó lường.

3 cách tiếp cận ICT trong việc hoạch định chính sách phát triển

Một là, phát triển ICT nhằm mục đích xuất khẩu (như mục tiêu xuất khẩu 500 triệu USD phần mềm của nước ta chẳng hạn). Cách tiếp cận này có thể mang lại những lợi ích kinh tế đáng kể, như sự tăng trưởng và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, những thành tựu như vậy không đương nhiên dẫn tới sự phát triển chung cho cả xã hội. Với các trung tâm công nghệ cao và các loại phần mềm, đường cày của những người nông dân chưa hẳn sẽ bớt nhọc nhằn hơn. Ví dụ về việc phát triển ICT theo định hướng xuất khẩu của Costa Rica và Đài Loan đã phần nào cho thấy điều này.

Hai là, phát triển năng lực sản xuất các sản phẩm ICT trong nước. Cách làm này có thể đáp ứng nhu cầu nội địa, củng cố các mối quan hệ kinh tế trong nước. Tuy nhiên, không sớm thì muộn, nó sẽ hạn chế khả năng tiếp nhận công nghệ mới và làm giảm ưu thế cạnh tranh của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu. Trong ICT không thể có vinh quang cho cả đời người. Sản phẩm mới liên tục xuất hiện trên thế giới, và nền sản xuất trong nước, trong đa số các trường hợp, không đuổi theo kịp. Ví dụ về việc sản xuất các sản phẩm ICT trong nước là trường hợp của Braxin, Ấn Độ, Hàn Quốc có thể cho ta nhiều bài học hữu ích.

Ba là, sử dụng ICT như động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cách tiếp cận này lại có thể chia được ra thành hai loại:

– Sử dụng ICT để tái định vị nền kinh tế quốc dân nhằm bảo đảm ưu thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Ví dụ như Malaysia, Tobago.

– Sử dụng ICT để theo đuổi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Ví dụ như Nam Phi, Estonia.

Cách tiếp cận cuối cùng có vẻ phù hợp nhất đối với đất nước ta. Tuy nhiên, đây là cách khó nhất. Vì ràng mọi chuyện không chỉ nằm ở ICT, mà ở khả nâng sử dụng chúng như “đôi đũa thần” để tạo nên sự biến đổi kỳ diệu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo cách tiếp cận này, có 5 loại công việc cần làm:

  1. Xây dựng cơ sở hạ tầng ICT.
  2. Phát triển nhân lực.
  3. Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp.
  4. Tạo động lực kinh doanh.
  5. Bảo đảm nội dung thông tin và các ứng dụng thiết thực. Khó, nhưng không nằm ngoài tầm tay của chúng ta.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng
Nguồn:  Tạp chí Nhà Quản lý

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

—————————————-

THAM KHẢO DỊCH VỤ LIÊN QUAN:
1. Dịch vụ tư vấn sở hữu trí tuệ;

2. Tư vấn đăng ký mã số, mã vạch;

3. Dịch vụ đăng ký bản quyền tác giả;

3. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Hoa Kỳ;

4. Tư vấn thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu;

5. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại EU;

6.  Dịch vụ tư vấn bảo hộ thương hiệu doanh nghiệp;