Thưa Luật sư của LVN Group. Xin Luật sư của LVN Group giải đáp giúp em khái niệm công chứng là gì? Đặc điểm của công chứng là gì ạ? Công chứng và chứng thực có điểm gì khác nhau? Và văn bản quy định về Công chứng hiện hành là văn bản nào ạ? Rất mong được Luật sư của LVN Group giải đáp. Xin chân thành cảm ơn! (Trần Loan – Yên Bái)

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi thắc mắc tới công ty luật LVN Group. Nội dung bạn hỏi chúng tôi nghiên cứu và giải đáp như sau:

 Cơ sở pháp lý

– Luật Công chứng (năm 2006)

– Luật Công chứng năm 2014

1. Khái niệm công chứng nhà nước

Công chứng hay nói rõ hơn là yêu cầu chứng nhận, xác nhận,làm chứng. Hoạt động công chứng luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội. Thuật ngữ Notariat (công chứng) – có gốc Latin là “Notarius” nghĩa là ghi chép, viết – nhưng không thể hiểu Notariat một cách sơ khai như nó có trong Luật La Mã (năm 452 trước Công Nguyên). Công chứng là một nghề đã tồn tại hàng trăm năm nay. Đến nay, đó là một nghề được tổ chức chặt chẽ và rất phát triển.

Ở cộng hòa Pháp, công chứng hiện đại đã có từ hơn hai trăm năm nay. Tổ chức công chứng ở nước ta tuy ra đời muộn (các nước châu Âu có thiết chế công chứng từ hàng trăm năm nay) nhưng đã may mắn gặp được môi trường rất thuận lợi để phát triển đó là nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nền kinh tế thị trường vừa là đối tượng phục vụ vừa là điều kiện phát triển của thiết chế công chứng. Ở các nước trên thế giới đã từ lâu không còn khái niệm công chứng mà thay vào đó là các phòng công chứng tư nhân. Ở Việt nam có hai loại hình công chứng là công chứng tư và công chứng công.Tổ chức công chứng và người thực hiện hành vi công chứng được nhà nước ra quyết định công nhận và cho phép hoạt động nhằm đảm bảo tính xác thực trong giao dịch và các quan hệ khác theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của công dân, tổ chức được thể hiện bằng các hình thức Nhà nước trực tiếp thực hiện( công chứng nhà nước) hay Nhà nước ủy quyền( công chứng tư). Trong nhân dân ta tồn tại một tập quán mỗi khi có giao dịch quan trọng đều nhờ có uy tín trong họ hàng ,làng xóm đứng ra làm chứng. Khi có tranh chấp xảy ra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào hình thức chứng nhận trên để giải quyết tranh chấp. Như vậy công chứng tư có thể được hiểu là những văn tự độc lập do các cá nhân công dân thực hiện và có người thứ ba làm chứng với tư cách cá nhân. Loại hoạt động này chúng ta thấy xuất hiện từ thời cổ đại và tồn tại cho tới ngày nay với hình thức là văn phòng công chứng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Đối với hình thức công chứng nhà nước, Nhà nước tổ chức và thực hiện công chứng chứ không ủy quyền cho tổ chức và cá nhân thực hiện. Là loại hình công chứng được tổ chức chặt chẽ và hoạt động chuyên nghiệp bằng kinh phí của nhà nước.Tổ chức công chứng là cơ quan nhà nước, nằm trong bộ máy hành pháp.

Công chứng xuất hiện ở nước ta từ những năm 1930, do tình hình lịch sử và điều kiện kinh tế, xã hội nên nước ta không thành lập tổ chức công chứng. Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên nước ta sử dụng thuật ngữ công chứng nhà nước: Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ.

Ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật số 82/2006/QH11 quy định về công chứng.

Luật Công chứng đã có hiệu lực và đi vào cuộc sống kể từ ngày 1/1/2007. Theo quy định tại Điều 2 Luật Công chứng, công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Còn chứng thực là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính hoặc chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực. Dựa trên Luật công chứng và quy định của Nghị định 79/CP về công chứng, chứng thực ở nước ta hiện nay thì khái niệm công chứng được phân định rõ trên cả hai phương diện về tổ chức và hoạt động công chứng, chứng thực. Việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của Phòng công chứng thực hiện thì được gọi là các việc công chứng. Việc chứng nhận bản sao văn bản giấy tờ, chứng nhận chữ ký của cá nhân thì do người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã thực hiện được xem là chứng thực.

2. Phân biệt Công chứng và chứng thực

Luật Công chứng (năm 2006) và Nghị định 79/2007/NĐ-CP về chứng thực đã có hiệu lực từ tháng 7/2007, nhưng trên thực tế không ít cán bộ và người dân vẫn chưa phân biệt được công chứng và chứng thực… nên đã yêu cầu cơ quan nhà nước thực hiện không đúng thẩm quyền. Tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa công chứng và chứng thực là chủ thể thực hiện công việc công chứng, chứng thực.

Chủ thể thực hiện hành vi công chứng là công chứng viên của Phòng công chứng hoạt động chuyên trách, Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập. Chủ thể thực hiện hành vi chứng thực là cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Trưởng, Phó phòng Tư pháp, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND cấp xã, viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Điều 5, Nghị định 79/CP).

Như vậy, công chứng và chứng thực là hai khái niệm khác nhau cả về phương diện tổ chức, phạm vi hoạt động, chủ thể thực hiện hành vi công chứng, chứng thực.

3. Đặc điểm, vai trò của công chứng nhà nước

3.1. Đặc điểm công chứng nhà nước

Công chứng nhà nước là hoạt động mang tính chất công, do công chứng viên thực hiện. Hoạt động công chứng ở nước ta do nhà nước quản lý về tổ chức, hoạt động công chứng là hoạt động dịch vụ công, công chứng có nhiệm vụ giúp công dân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ bằng các biện pháp pháp lý. So với hoạt động của cơ quan tư pháp với chức năng thực thi công quyền thì hoạt động công chứng là hoạt động hỗ trợ tư pháp, cung cấp chứng cứ cho hoạt động tư pháp. Công chứng ở nước ta có điểm giống nhau so với công chứng của các nước trên thế giới, là do tổ chức công chứng và công chứng viên thực hiện, hoạt động công chứng được xem là một trong số các nghề tư pháp, công chứng viên là một chức danh do nhà nước quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức. Công chứng viên là người được giao nhiệm vụ chứng nhận các hợp đồng, giao dịch của công dân và tổ chức, nhằm tạo ra một chứng cứ xác thực có giá trị pháp lý cao ngoại trừ quyết định của tòa án, tạo sự tin tưởng cho các bên tham gia.

Công chứng viên, nếu là công chức nhà nước hoạt động chuyên trách được hưởng lương theo nghạch bậc công chứng viên, lệ phí thu được phải nộp vào ngân sáchnhà nước. Khi công chứng viên gây thiệt hại đối với đương sự thì tổ chức công chứng chịu trách nhiệm dân sự đối với đương sự. Nghị định 75/2000/NĐ-CP (8/12/2001) không có điều nào quy định cấm công chứng viên hành nghề tự do, song cũng không có quy định nào cho phép công chứng viên hành nghề tự do. Đến năm 2006, Luật công chứng ra đời thì công chứng viên được lựa chọn nơi hành nghề công chứng, trừ công chứng viên của Phòng công chứng. Đây được xem là bước phát triển mới trong tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta.

Với những đặc điểm trên, công chứng nhà nước ở nước ta là hoạt động dịch vụ mang tính chất công, hoạt động theo nguyên tắc tự hạch toán hoặc tự trang trải. Công chứng nhà nước còn là một khâu trong quá trình quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động giao dịch. Hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay là hoạt động mang tính chất nghề nghiệp, do công chứng viên thực hiện, đồng thời là hoạt động của các chức danh không chuyên nghiệp. Mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, cung cấp tài liệu có giá trị chứng cứ khi cần thiết để phục vụ việc giải quyết các tranh chấp, củng cố trật tự pháp luật.

3.2. Vai trò của công chứng nhà nước

Đối với nước ta việc luật công chứng ra đời trong những năm gần đây là phù với điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, thực hiện đổi mới kinh tế, xã hội phù hợp với chủ trương của nhà nước phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, trong đó sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Chính cơ sở kinh tế này đã quyết định đến việc xây dựng hệ thống công chứng và xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ công chứng ở nước ta.

Phòng công chứng với tư cách là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, đã có một vị thế mới, hoạt động công chứng lần đầu tiên trong văn bản của chính phủ được thừa nhận là một nghề tư pháp (Luật công chứng 2006).

Hoạt động chứng nhận của cơ quan thực hiện công chứng nhằm bảo đảm an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế và các quan hệ xã hội khác, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, có tác dụng phòng ngừa các tranh chấp và vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó là giá trị thi hành đối với các bên giao kết, sự hiện diện của công chứng viên, người có trình độ chuyên môn hiểu biết pháp luật chứng nhận các bên đưa ra những điều khoản đúng pháp luật đã giúp cho hiệu lực của văn bản công chứng có giá trị cao. Văn bản công chứng buộc công dân, tổ chức phải tự nguyện thi hành những nghĩa vụ và giúp họ được hưởng những quyền lợi mà văn bản công chứng xác nhận mà không cần phải thông qua phán xét của Tòa án.

Hoạt động công chứng nhà nước là hoạt động dịch vụ công, tuy không phải là hoạt động quản lý nhà nước nhưng nó góp phần hỗ trợ tích cực để Nhà nước thực hiện quản lý các hoạt động giao dịch. Khi nói đến hoạt động công chứng tức là đến việc yêu cầu chứng nhận và việc chứng nhận. Quá trình chứng nhận là quá trình diễn ra giữa các chủ thể yêu cầu chứng nhận và chủ thể chứng nhận cùng hoạt động chung nhằm mục đích phản ánh chính xác nội dung sự việc. Với những vai trò nêu trên, công chứng có thể được xem là một hoạt động bổ trợ tư pháp, với nghĩa hẹp là bổ trợ cho hoạt động xét xử của tòa án, với nghĩa rộng là góp phần duy trì trật tự xã hội.

4. Phạm vi hoạt động của công chứng nhà nước

Việc xác định phạm vi hoạt động của công chứng hay nói cách khác là xác định thẩm quyền của cơ quan công chứng được làm những gì, hoạt động trong khuôn khổ nào. Để xác định được thế nào là việc công chứng thì cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật, người được giao thực hiện và ký văn bản công chứng. Vấn đề xác định phạm vi công chứng ở các nước có sự khác nhau, tùy theo điều kiện, hòan cảnh của từng nước, có hai cách để các nước lựa chọn.

Cách thứ nhất, Nhà nước xác định phạm vi sau đó các văn bản pháp luật khác quy định một số việc bắt buộc phải có chứng nhận của công chứng.

Cách thứ hai, Nhà nước liệt kê các việc công chứng. Việc liệt kê giúp cho công chứng viên xác định rõ ràng việc mình được làm và buộc phải làm, giúp cho Nhà nước theo dõi, kiểm tra hoạt động của công chứng viên một cách dễ dàng. Nhưng mặt trái của nó là vì quy định như vậy không thể nào liệt kê hết được những việc mà công dân cần công chứng, dẫn đến hạn chế hoạt động của công chứng viên và không đáp ứng được nhu cầu công chứng của công dân.

Thực tiễn hoạt động công chứng trong những năm vừa qua (từ khi Luật công chứng 2006 được ban hành) cho thấy rằng, hoạt động công chứng ngày càng phát triển.

Một mặt, do hoạt động sôi động của nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế thương mại và các quan hệ giao dịch trở nên phong phú đa dạng; mặt khác, do nhận thức về pháp luật của nhân dân về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong các quan hệ giao dịch dân sự ngày càng cao. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, vai trò của công chứng hết sức quan trọng, nó giúp Nhà nước quản lý các hoạt động giao dịch. Nếu Nhà nước áp dụng quá nhiều hình thức bắt buộc phải công chứng một cách cứng nhắc tạo ra sự ràng buộc không cần thiết trong giao dịch.

Mục đích của việc xác định phạm vi công chứng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phạm vi công chứng mở rộng hay thu hẹp và nhằm vào đối tượng nào là tùy thuộc vào yêu cầu quản lý của nhà nước trong từng giai đoạn.

Trong 15 năm thực hiện hoạt động công chứng, chứng thực (1992 – 2007), hoạt động này ở nước ta đã thể hiện những điểm hạn chế cơ bản về mô hình tổ chức hoạt động công chứng, đặc biệt là sự lẫn lộn giữa công chứng và chứng thực dẫn đến quá tải về bản sao tại các phòng công chứng (theo Báo cáo tổng kết khi xây dựng Luật Công chứng thì có từ 95 đến 98% công việc của phòng công chứng là chứng nhận bản sao giấy tờ), khiến người dân và các doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian chờ đợi, xếp hàng, vấn nạn “cò công chứng” cũng nhờ đó mà phát triển làm mất uy tín của công chứng.

Để giải quyết tình trạng nêu trên, ngày 29/11/2006 Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng, ngày 18/5/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Đây là bước ngoặc quan trọng trong quá trình phát triển công chứng, chứng thực ở nước ta, đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho việc phát triển công chứng theo hướng chuyên nghiệp hóa, dịch vụ hóa và xã hội hóa.

Chỉ trong vòng thời gian ngắn triển khai thực hiện, tính đến 30/09/2010, số tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước đã tăng gấp bốn lần so với trước đó (từ 1992- 6/2007, cả nước có khoảng 84 tổ chức hành nghề công chứng, hiện nay con số này là 336, trong đó có 128 phòng công chứng và 208 văn phòng công chứng). Số lượng các hợp đồng, giao dịch mà các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước đã chứng nhận trong ba năm (01/7/2007 – 30/09/2010) là 1.446.145, tổng phí công chứng thu được gần 550 tỷ đồng, tăng hơn nhiều so với trước khi có Luật Công chứng. Điều quan trọng là các tổ chức hành nghề công chứng đã có sự thay đổi lớn trong thái độ, phong cách phục vụ. Có thể nói rằng luật công chứng ra đời là một bước đột phá trong việc mở rộng phạm vi công chứng. Cơ quan công chứng và các cơ quan có thẩm quyền chứng thực được phép chứng nhận các hợp đồng giao dịch mà pháp luật quy định phải công chứng và cá nhân tổ chức tự nguyện yêu cầu.

Trong những năm vừa qua, do bị bó hẹp trong việc liệt kê cụ thể các việc công chứng, cho nên các phòng công chứng chỉ căn cứ vào đó để thực hiện, không đáp ứng được các nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức về hợp đồng, giao dịch thuộc lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại, gây cản trở các hoạt động kinh tế, xã hội. Dẫn đến nhiều yêu cầu công chứng bị từ chối, hoặc phải phối hợp với nhiều cấp, nhiều ngành mới thực hiện được. Theo quy định hiện nay thì các việc công chứng chỉ bị giới hạn khi thực hiện công chứng, chứng thực, người thực hiện công chứng, chứng thực phải khách quan, trung thực và phải chịu trách nhiệm công chứng, chứng thực do mình thực hiện; trong trường hợp biết hoặc phải biết việc công chứng, chứng thực hoặc nội dung công chứng, chứng thực trái pháp luật, đạo đức xã hội thì không được thực hiện công chứng, chứng thực. Đây là điểm rất tiến bộ vừa có tính khoa học, vừa có tính pháp lý chặt chẽ.

5. Điểm mới của Luật công chứng năm 2014 so với Luật công chứng năm 2006

Luật Công chứng năm 2014 có 10 chương và 81 điều, trong đó có nhiều quy định mới đáng chú ý như mở rộng phạm vi công chứng; tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên, về tổ chức hành nghề công chứng…cụ thể như sau:

5.1.Về phạm vi hoạt động của công chứng viên

Phạm vi công chứng được mở rộng ngoài nhiệm vụ chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, Luật công chứng (sửa đổi) giao lại cho công chứng viên quyền công chứng bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại (Khoản 1 Điều 2). Bên cạnh đó, Công chứng viên cũng được giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản; việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực ( Điều 77).

5.2. Về công chứng viên

Luật công chứng (sửa đổi) quy định rõ hơn về địa vị pháp lý, trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của công chứng viên. Điều 3, Luật Công chứng năm 2014 quy định rõ: “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội”.

Theo Luật Công chứng năm 2006, những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, Luật sư của LVN Group đã hành nghề từ 3 năm trở lên có thể được miễn đào tạo nghề công chứng thì nay Luật công chứng năm 2014 quy định thời hạn này là 5 năm. Bên cạnh việc kéo dài thời gian công tác thực tế của các nhóm đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng (từ 3 năm lên 5 năm), Luật Công chứng sửa đổi cũng bổ sung quy định người được miễn đào tạo phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Thời gian bồi dưỡng nghề công chứng là 3 tháng.

Nhằm nâng cao chất lượng và sự phát triển bền vững của đội ngũ Công chứng viên, Luật Công chứng năm 2014 qui định chặt hơn về tiêu chuẩn Công chứng viên, tăng thời hạn đào tạo Công chứng viên lên thành 12 tháng, qui định người được miễn đào tạo nghề công chứng phải tham gia khóa bồi dưỡng nghiệp vụ trước khi được bổ nhiệm và chỉ được giảm 1/2 thời gian tập sự, tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng.

5.3. Về tổ chức hành nghề công chứng

Luật Công chứng năm 2014 tiếp tục ghi nhận 2 loại hình tổ chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng và Văn phòng công chứng) song xác định rõ định hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, ưu tiên phát triển các Văn phòng Công chứng theo qui hoạch tổng thể về tổ chức hành nghề công chứng. Phòng công chứng chỉ được thành lập mới tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng. Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ.

Đặc biệt, trong lần sửa đổi này, Luật công chứng quy định Văn phòng công chứng “phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên” (khoản 1 Điều 22); Đồng thời quy định về Phòng Công chứng “Trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi phòng công chứng thành văn phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Chính phủ quy định cụ thể việc chuyển đổi phòng công chứng thành văn phòng công chứng” (Khoản 1 Điều 21).

5.4. Về các hành vi công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng bị nghiêm cấm

Đáng lưu ý là, Luật công chứng sửa đổi lần này không cho phép công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài phạm vi hoạt động đã đăng ký; ép buộc người khác sử dụng dịch vụ của mình hay quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ chức mình; công chứng viên cũng không được phép tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng hay đồng thời hành nghề tại 02 tổ chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác (Điều 7).

5.5. Về tổ chức xã hội – nghề nghiệp

Điểm mới này quy định trong Luật công chứng một cách khái quát về vai trò, chức năng, nhiệm vụ cơ bản về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên. Tổ chức này khi được thành lập sẽ thực hiện các nhiệm vụ do Điều lệ của tổ chức quy định cũng như các nhiệm vụ khác liên quan đến hoạt động công chứng do Chính phủ giao phù hợp với quy mô và năng lực thực tế của tổ chức trong từng thời kỳ.

Ngoài những quy định trên, Luật Công chứng sửa đổi cũng bổ sung nhiều quy định về nguyên tắc hành nghề công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, tập sự hành nghề công chứng, bổ nhiệm lại công chứng viên, quyền và nghĩa vụ của công chứng viên, hồ sơ công chứng, chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng, quán lý nhà nước về công chứng…

Luật Công chứng năm 2014 tin tưởng là sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới của hoạt động công chứng theo chủ trương xã hội hóa, nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công chứng.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi về nội dung “Khái niệm công chứng là gì? Đặc điểm công chứng và điểm mới của Luật công chứng năm 2014”. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập