1. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Hoa Kỳ)

– Về pháp luật TTTPHS: Điều 1782 Chương 28 và Điều 3512 Chương 18 Bộ tổng tập luật Hoa Kỳ quy định Cơ quan trung ương của nước ngoài có thể yêu cầu TTTPHS để thu thập chứng cứ trong điều tra hình sự, truy tố và các thủ tục TTHS khác. Các yêu cầu có thể được lập theo quy định của ĐƯQT song phương, đa phương hoặc không có ĐƯQT (theo nguyên tắc có đi có lại).
Với yêu cầu lập theo quy định của một ĐƯQT sẽ được tiếp nhận, xem xét và xử lý theo quy định của ĐƯQT và pháp luật trong nước, cụ thể là tại Điều 1782 Chương 28 và Điều 3512 Chương 18 (về TTHS) Bộ tổng tập luật Hoa Kỳ. Sau đó, ủy thác tư pháp về hình sự được chuyển đến một trong 94 cơ quan thuộc Tổng công tố Hoa Kỳ để xem xét việc thực thi. Thông thường tòa án cấp quận có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cụ thể. Sau khi có kết quả tương trợ, Văn phòng các vấn đề quốc tế, Cục Hình sự, Bộ Tư pháp sẽ gửi kết quả này cho cơ quan có thẩm quyền quốc gia yêu cầu.
Với yêu cầu theo nguyên tắc có đi có lại, ủy thác tư pháp gửi qua Văn phòng các vấn đề quốc tế, Cục Hình sự, Bộ Tư pháp để xem xét, chuyển cho cơ quan công tố và tòa án cấp quận có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật trong nước như nêu trên.
– Pháp luật về dẫn độ: “Dẫn độ” là hình thức chuyển giao một người từ một quốc gia đến một quốc gia khác để truy cứu TNHS hoặc thi hành án hình sự. Hiện nay, Hoa Kỳ đã ký kết hiệp định song phương về dẫn độ với hơn 140 quốc gia trên thế giới và nhiều ĐƯQT đa phương. Hoa Kỳ thường dẫn độ trên cơ sở hiệp định song phương. Các điều ước đa phương này có hai loại, một là điều ước đa phương chuyên biệt liên quan đến dẫn độ, hai là một số điều ước đa phương nói chung  nhằm mục đích ngăn chặn và trừng phạt hoạt động của tội phạm xuyên quốc gia hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền con người, bao gồm cả việc áp đặt nghĩa vụ của các bên ký kết phải truy tố và dẫn độ những người tham gia vào các hành vi được xác định. Mặc dù, các điều ước này không phải là các ĐƯQT về dẫn độ, tuy nhiên chúng thường chứa đựng những quy định về các hành vi được xác định là hành vi có thể bị dẫn độ trong các ĐƯQT.
Bên cạnh đó, pháp luật Hoa Kỳ cho phép dẫn độ bất kỳ người nước ngoài nào được phát hiện trên lãnh thổ của mình mà người này đã bị yêu cầu dẫn độ hoặc bị truy cứu TNHS bởi một Tòa án hình sự quốc tế. Cơ quan trung ương về dẫn độ là Văn phòng các vấn đề quốc tế, Cục Hình sự, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.

2. Pháp luật về hợp tác quốc tế trong các vấn đề về hình sự của Cộng hòa liên bang Đức

(Liên bang Đức)

Về pháp luật: Luật về HTQT trong các vấn đề về hình sự của Liên bang Đức ngày 23/12/1982, sửa đổi, bổ sung năm 2012 [80], [98]. Luật gồm 11 phần, 99 điều quy định về quan hệ với nước ngoài về hợp tác trong lĩnh vực hình sự, gồm các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng đối với một tội phạm thông thường (không coi là tội phạm chính trị, quân sự hoặc một số loại bị coi là tội phạm đặc biệt khác) có thể bị áp dụng hình phạt bởi tòa án hình sự đối với hành vi tương tự ở Liên bang Đức (nguyên tắc tội phạm kép). ĐƯQT mà Liên bang Đức là thành viên được ưu tiên áp dụng, không được trái với pháp luật liên bang. Việc hợp tác được quy định trong luật này đối với các quốc gia trong và ngoài EU. Về phạm vi HTQT trong lĩnh vực hình sự, TTHS, Luật này quy định:
– Dẫn độ (Liên bang Đức gửi yêu cầu hoặc nhận yêu cầu) được quy định từ Điều 2 đến Điều 47, yêu cầu dẫn độ bổ sung, nguyên tắc có đi có lại, tội phạm chính trị, truy bức chính trị, tội phạm quân sự, hình phạt tử hình, tội phạm bị nhiều quốc gia yêu cầu, thủ tục dẫn độ với Tòa hình sự quốc tế, tài liệu, hồ sơ dẫn độ, nguyên tắc đặc biệt, thẩm quyền xem xét giải quyết việc dẫn độ do Tòa hình sự cấp quận nơi người bị yêu cầu dẫn độ có mặt hoặc là nơi cư trú cuối cùng tại Liên bang Đức, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, giam, giữ, khám xét để giải quyết yêu cầu dẫn độ, bắt khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ chính thức, bắt, tạm giam để dẫn độ, thủ tục thông báo, lập lệnh bắt để giải quyết yêu cầu dẫn độ, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, dẫn độ tạm thời, dẫn độ đơn giản, dẫn độ đến nước thứ ba, chuyển giao đồ vật, tài liệu. Luật cũng quy định nhiệm vụ và trách nhiệm của Luật sư của LVN Group bào chữa (Điều 40).
– Hỗ trợ thông qua việc thi hành phán quyết (lệnh, quyết định) của tòa nước ngoài được quy định từ Điều 48 đến Điều 58.
– Những hợp tác trong hoạt động khác (gồm TTTPHS), trong đó quy định hỗ trợ tư pháp có thể được tiến hành với bất kỳ hoạt động nào của TTHS ở nước ngoài được cơ quan hành pháp, tư pháp có thẩm quyền của nước ngoài yêu cầu. Về chuyển giao thông tin cá nhân liên quan vụ án hình sự, đội điều tra chung theo ĐƯQT, thỏa thuận hoặc nguyên tắc có đi có lại với từng vụ việc, bố trí người làm chứng, chuyên gia giám định hoặc hỗ trợ điều tra, chuyển giao vật chứng, tài liệu, đồ vật, khám xét. Luật có quy định Điều 67a về TTTP với các tòa hình sự quốc tế, tổ chức liên nhà nước và siêu nhà nước (như EU).
Phần VII luật quy định các nguyên tắc chung, theo đó, các giới hạn tương trợ về trật tự công cộng, về hồ sơ và chứng cứ, giao tiếp điện tử để tạo thuận lợi cho việc hợp tác, phối hợp, giúp đỡ nước khác.

3. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)

Về pháp luật, HTQT trong lĩnh vực TTHS ở Trung Quốc được quy định tại BLTTHS (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Luật dẫn độ và các văn bản pháp luật khác quy định về chuyển giao người bị kết án.
BLTTHS được sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định Điều 365 phạm vi TTTP hình sự và hợp tác Cảnh sát giữa cơ quan Công an chủ yếu là trao đổi và hợp tác trao đổi thông tin tội phạm, điều tra, thu thập chứng cứ, tống đạt tài liệu, hồ sơ TTHS, chuyển vật chứng, tài liệu, chứng cứ, dữ liệu điện tử, nghe nhìn và các loại chứng cứ khác, tham gia hoạt động dẫn độ, bắt giữ và trục xuất đối tượng hình sự, bị cáo, người phạm tội hoặc hình thức hợp tác khác được quy định trong các thỏa thuận, ĐƯQT mà Trung Quốc là thành viên. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đến tháng 12/2013, Trung Quốc đã ký với 37 hiệp định song phương về dẫn độ, là thành viên của 14 ĐƯQT đa phương về dẫn độ; ký 11 hiệp định song phương về chuyển giao người bị kết án phạt tù; ký 50 hiệp định song phương TTTPHS (trong đó, có 16 hiệp định song phương TTTP về các lĩnh vực dân sự, hình sự, là thành viên của hơn 20 ĐƯQT đa phương có quy định về TTTPHS).  Pháp luật Trung Quốc cho phép tiến hành TTTPHS, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù với các quốc gia không cùng là thành viên ĐƯQT về nội dung này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại. Ngoài ra, Trung Quốc cũng ký hơn 110 bản ghi nhớ, thỏa thuận quốc tế với viện công tố các quốc gia và 92 bản ghi nhớ, thỏa thuận quốc tế với Bộ Tư pháp của các nước; gần 190 bản ghi nhớ, thỏa thuận quốc tế với cơ quan Công an, Cảnh sát các nước, lập và vận hành 65 đường dây nóng với các cơ quan nội vụ, cảnh sát các nước, tham gia 81 cơ chế đối ngoại quốc tế; cử 40 sỹ quan liên lạc tới 23 nước và tổ chức quốc tế.
Điều 366 BLTTHS quy định, không trái với các ĐƯQT, thỏa thuận quốc tế và pháp luật liên quan của Trung Quốc, cơ quan công an cấp thành phố, châu, xã ở vùng biên giới có thể, phù hợp với tình hình thực tiễn, tiến hành gặp gỡ với cơ quan thực thi pháp luật, trao đổi nhân sự, phối hợp kiểm soát biên giới, trao đổi thông tin và triển khai các hình thức hợp tác Cảnh sát khác nhưng phải được phê duyệt bởi cơ quan công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và báo cáo bằng văn bản cho Bộ Công an.
Điều 679 BLTTHS quy định vai trò Viện kiểm sát trong TTHS (giai đoạn xét xử), xác định phạm vi TTTP hình sự của Viện kiểm sát chủ yếu gồm điều tra các vụ án hình sự, tống đạt tài liệu TTHS, thông báo kết quả TTHS, chuyển giao vật chứng, tài liệu chứng cứ, dữ liệu điện tử nghe nhìn, kê biên và chuyển tài sản bị trộm cắp và các hình thức TTTP khác phù hợp với pháp luật và ĐƯQT. Điều 690 quy định, trường hợp Viện kiểm sát nhân dân ở khu vực biên giới Trung Quốc và cơ quan tư pháp tương ứng của quốc gia láng giềng hợp tác TTTP, các cơ quan này có thể ký kết thỏa thuận về các vấn đề cụ thể trong quá trình xử lý vụ án, triển khai các hoạt động hợp tác hữu nghị.
Cơ quan trung ương TTTPHS là VKSNDTC; Bộ Ngoại giao là cơ quan trung ương về dẫn độ.

4. Liên hiệp Vương quốc Anh, Xơ-Cốt-len, xứ Uên và Bắc Ai-len (Vương quốc Anh)

a) Vương quốc Anh ban hành Luật về tội phạm (HTQT) năm 2003. Luật này là luật chuyên ngành quy định về hợp tác với các quốc gia khác trong các thủ tục TTHS và điều tra hình sự, mở rộng thẩm quyền tài phán nhằm xử lý các hành vi khủng bố hoặc các mối đe dọa bên ngoài lãnh thổ Vương quốc Anh và các mục đích khác có liên quan. Luật quy định về nội dung, hình thức, thẩm quyền tiến hành các
thủ tục chuyển giao, giao nhận, xử lý, giải quyết các yêu cầu TTTPHS, các hoạt động ủy thác tư pháp trong điều tra vụ án hình sự, các loại thông tin, tài liệu, thủ tục xác nhận chứng cứ, bố trí người có chuyên môn được phép tiến hành hỗ trợ điều tra vụ án hình sự có liên quan đến Vương quốc Anh.
Cơ quan trung ương gồm Bộ Nội vụ, Hải quan, Cơ quan PCTP nghiêm trọng, và các cơ quan khác trong từng phần lãnh thổ Vương quốc Anh, Scôt-len, Bắc Ai- len, lãnh thổ hải ngoại) trong đó, Bộ Nội vụ nhận và gửi số lượng lớn yêu cầu TTTPHS.
Hoạt động TTTPHS gồm: Tống đạt giấy tờ, tài liệu tố tụng, chuyển giao hồ sơ truy cứu TNHS, trao đổi thông tin hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, lấy lời khai (hỏi cung), lấy lời khai nhân chứng, lấy lời khai qua kênh truyền hình, điện thoại trực tuyến, khám xét và phong tỏa, thu giữ máy tính và vật mang dữ liệu, dữ liệu điện tử, ghi âm, ghi hình, nghe – ghi âm điện thoại, phong tỏa tài sản, phương tiện phạm tội, sung công, tịch thu tài sản, phương tiện phạm tội, bố trí người có mặt ở nước ngoài để lấy lời khai hoặc hỗ trợ điều tra, chuyển giao vụ án hình sự để truy cứu TNHS, phối hợp điều tra, lập đội điều tra chung.
Năm 2017, Cơ quan trung ương nhận 6.757 yêu cầu TTTPHS (355 yêu cầu thông qua Lệnh điều tra châu Âu) và 1.967 yêu cầu phối hợp hoạt động tố tụng như tống đạt tài liệu, thu thập chứng cứ.
Theo thống kê của Bộ Nội vụ Vương quốc Anh, đến năm 2018, Vương quốc Anh là thành viên của 3 ĐƯQT về PCTP ma túy, tham nhũng và tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tham gia Quy chế năm 2011 về TTTPHS và Quy chế năm 2002 về dẫn độ trong EU; 7 ĐƯQT về PCTP rửa tiền, khủng bố, tội phạm mạng, các công ước về TTTPHS, dẫn độ và các nghị định thư bổ sung các ĐƯQT này; 40 hiệp định song phương về TTTPHS (trong đó, ký với Việt Nam năm 2009, có hiệu lực 2010); 28 hiệp định song phương về dẫn độ. Ngoài ra, nguyên tắc có đi có lại cũng được áp dụng nếu Vương quốc Anh và các quốc gia khác không cùng là thành viên ĐƯQT liên quan.
b) Pháp luật về dẫn độ: Vương quốc Anh ban hành Luật về dẫn độ năm 2003, có hiệu lực từ 01/01/2004. Phần 1 của Luật này quy định về thực thi quyết định của Hội đồng châu Âu về lệnh bắt giữ châu Âu giữa các quốc gia thành viên. Trong đó, dẫn độ theo quy định này được thực hiện theo lệnh của thẩm phán theo thủ tục TTHS. Phần 2 của Luật quy định về dẫn độ giữa Vương quốc Anh với các quốc gia ngoài châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Anh sẽ ra quyết định về việc chấp nhận dẫn độ hay không sau khi nhận được quyết định xem xét, giải quyết của thẩm phán có thẩm quyền. Luật quy định về kháng nghị lên cấp phúc thẩm, tòa án cấp trên trực tiếp sẽ thụ lý và giải quyết kháng nghị phúc thẩm việc quyết định cho phép dẫn độ.
Theo tổng kết ở giai đoạn 2004-2011, số liệu yêu cầu dẫn độ hàng năm các quốc gia châu Âu gửi Vương quốc Anh không đều, trung bình khoảng 151 yêu cầu (có năm gần 1.100 yêu cầu); số yêu cầu dẫn độ của Vương quốc Anh gửi đi các nước khác nhau, có 1.295 yêu cầu gửi đi, được chấp nhận 581 yêu cầu; Vương quốc Anh nhận khoảng 90 yêu cầu dẫn độ, chấp nhận khoảng 50%; gửi khoảng 70 yêu cầu dẫn độ đến nước ngoài.
– Luật hồi hương phạm nhân năm 2003 quy định Bộ Tư pháp Vương quốc Anh là cơ quan chủ trì việc tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, việc tiếp nhận, chuyển giao được tiến hành với thủ tục tư pháp, do tòa án quyết định. Vương quốc Anh không quy định về việc chuyển đổi hình phạt. Tính đến 2014, có đến 13% số phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Vương quốc Anh là người nước ngoài; cùng đó, khoảng 1.000 công dân Vương quốc Anh đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài.

5. Liên bang Nga

HTQT trong lĩnh vực TTHS được quy định ở Phần thứ năm, chương 18 BLTTHS Liên bang Nga được Đuma quốc gia thông qua năm 2001 và sửa đổi, bổ sung, cập nhật đến năm 2006 (sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2006); gồm 3 mục  và 21 điều. Cụ thể là:
a) Mục 53: Những quy định chung về thủ tục phối hợp hoạt động của Toà án, Kiểm sát viên, Dự thẩm viên và các cơ quan điều tra ban đầu với các cơ quan và người có thẩm quyền tương ứng của các quốc gia và với các tổ chức quốc tế (từ Điều 453 đến Điều 459). Trong đó, khi cần thiết phải tiến hành trên lãnh thổ quốc gia khác các hoạt động lấy lời khai thu giữ, khám xét, tạm giữ, giám định hoặc các hoạt động tố tụng khác quy định tại Bộ luật này thì Toà án, Kiểm sát viên, Dự thẩm viên gửi cho các cơ quan hoặc người có thẩm quyền tương ứng của quốc gia khác yêu cầu tiến hành các hoạt động nói trên phù hợp với Hiệp quốc tế của Liên bang Nga, với các thoả thuận quốc tế hoặc trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại. Các cơ quan Tòa án tối cao liên bang, Bộ Tư pháp liên bang, Bộ Nội vụ liên bang, Cơ quan An ninh liên bang, Viện kiểm sát tối cao liên bang là những cơ quan đầu mối tiếp nhận yêu cầu TTTP về những vụ việc thuộc thẩm quyền (Điều 453). Mục này quy định nội dung, hình thức của yêu cầu; Giá trị pháp lý của những chứng cứ thu thập được trên lãnh thổ nước ngoài; Triệu tập người làm chứng, người bị hại, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ đang ở lãnh thổ Liên bang Nga; Thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp ở Liên bang Nga; Chuyển giao hồ sơ vụ án để tiến hành truy cứu TNHS; Thực hiện những yêu cầu về thực hiện truy cứu TNHS hoặc khởi tố vụ án trên lãnh thổ Liên bang Nga.
b) Mục 54: Dẫn độ để truy tố hình sự hoặc để thi hành án (từ Điều 460 đến Điều 468). Theo đó, cơ quan trung ương về dẫn độ của Liên bang Nga là Viện kiểm sát tối cao liên bang. Cơ sở pháp lý để dẫn độ là ĐƯQT và pháp luật (trong đó có các quy định của BLTTHS), trường hợp không cùng là thành viên của một ĐƯQT về dẫn độ, Liên bang Nga chấp thuận dẫn độ theo nguyên tắc có đi có lại nhưng phù hợp với nguyên tắc và quy định của pháp luật và ĐƯQT mà Liên bang Nga là thành viên. Các nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc đặc biệt, điều kiện dẫn độ, từ chối bắt buộc và tùy nghi dẫn độ đối tượng, tạm hoãn dẫn độ và dẫn độ tạm thời, việc chuyển giao đối tượng bị dẫn độ và đồ vật, tài liệu liên quan; trình tự, thủ tục và  mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan hữu quan của Liên bang Nga trong giải quyết yêu cầu dẫn độ của phía nước ngoài cũng như việc lập yêu cầu dẫn độ của Liên bang Nga.
c) Mục 55: Chuyển giao người bị kết án phạt tù để chấp hành hình phạt ở quốc gia mà người đó là công dân (từ Điều 469 đến Điều 473). Quy định về căn cứ, điều kiện, thủ tục chuyển giao người bị kết án, căn cứ từ chối chuyển giao; trình tự, thủ tục chuyển giao. Viện kiểm sát tối cao liên bang Nga là cơ quan trung ương về chuyển giao người bị kết án phạt tù.

6. Nhật Bản

Các hoạt động HTQT trong TTTPHS, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù được quy định ở các văn bản luật chuyên biệt.
a) Để tạo cơ sở pháp lý HTQT về dẫn độ, Nhật Bản đã ban hành Luật về dẫn độ năm 1953, có số hiệu là Luật số 68, sau đó, được sửa đổi, bổ sung bằng  Luật số 163 năm 1954, Luật số 86 năm 1964 và Luật số 70 năm 1978, gồm 34 điều. Những nội dung đáng chú ý của luật gồm đối tượng, các điều kiện chung về dẫn độ, cơ sở không dẫn độ. Cơ quan tiếp nhận yêu cầu về dẫn độ của Nhật Bản là Bộ Ngoại giao. Sau khi nhận, xem xét tính hợp lệ, Bộ Ngoại giao chuyển hồ sơ cho Bộ Tư pháp cân nhắc, văn bản yêu cầu và tài liệu kèm theo được chuyển cho Công tố viên trưởng Viện công tố cấp cao Tokyo để đề nghị Toà thượng thẩm Tokyo xem xét các điều kiện chuyển giao người bị yêu cầu dẫn độ. Công tố viên trưởng sẽ yêu cầu công tố viên của Viện Công tố phê chuẩn lệnh bắt giữ của thẩm phán Toà thượng thẩm Tokyo áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ nếu xét thấy cần thiết; quyết định và giao cơ quan thực thi pháp luật bắt, giữ người bị yêu cầu dẫn độ để tiến hành xác minh nhân thân của người đó để quyết định và thực thi quyết định chấp thuật yêu cầu dẫn độ. Luật quy định thủ tục quản lý, tạm hoãn việc giam giữ người bị yêu cầu dẫn độ, việc bắt giữ khẩn cấp người bị yêu cầu dẫn độ để bảo đảm việc xem xét dẫn độ.
Thống kê từ năm 2008 đến 2012, Nhật Bản dẫn độ 4 đối tượng cho nước ngoài và nhận 12 đối tượng từ nước ngoài về nước.
b) Luật về tương trợ điều tra quốc tế năm 1980, sửa đổi, bổ sung năm 2004 gồm 29 điều, quy định TTTPHS ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Luật quy định nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền tương trợ các nước khác trong TTTPHS, các trường hợp không tương trợ hoặc hạn chế tương trợ.
Bên cạnh đó, Nhật Bản đã ký hiệp định song phương với Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông (Trung Quốc), EU và Liên bang Nga về TTTPHS. Đến năm 2016, Nhật Bản mới phê chuẩn UNTOC mặc dù đã ký từ năm 2003. Theo thống kê số lượng TTTPHS, từ năm 2008-2012, Nhật Bản tiếp nhận 299 yêu cầu, có kết quả 199 yêu cầu, đạt tỷ lệ 66,2%; gửi ra nước ngoài 247 yêu cầu, đã trả lời 140 yêu cầu, đạt tỷ lệ 56,7%. Ngoài ra, thông qua kênh hợp tác INTERPOL, Nhật Bản tiếp nhận 9.400 yêu cầu từ nước ngoài; gửi ra nước ngoài 2.262 yêu cầu.
c) Để thi hành Công ước châu Âu về chuyển giao người bị kết án năm 1983 và Nghị định thư bổ sung năm 1997 mà Nhật Bản là thành viên, ngày 12/6/2002, Nghị viện Nhật Bản đã thông qua Đạo luật chuyển giao người bị kết án phạt tù xuyên quốc gia. Đạo luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2003. Đạo luật gồm 4 chương, 47 điều quy định đối tượng chuyển giao; Cơ sở từ chối chuyển giao; Thủ tục, trình tự chuyển giao người bị kết án phạt tù, Cơ quan trung ương là Bộ Tư pháp nhận yêu cầu, gửi Tòa án quận Tokyo xem xét, quyết định theo (gửi kèm Trưởng công tố Văn phòng công tố quận Tokyo để kiểm sát thủ tục tư pháp).
Như vậy, Đạo luật chuyển giao người bị kết án phạt tù xuyên quốc gia năm 2002 của Nhật Bản đã quy định đầy đủ, chi tiết việc tiếp nhận, chuyển giao người bị kết án phạt tù. Đạo luật được ban hành đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý quốc gia và nâng cao hiệu quả HTQT trong chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Nhật Bản và các nước.
(Sưu tầm)
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group