Sau hơn 20 năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 11 tháng 7 năm 1995 và nâng cấp Văn phòng Liên lạc Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thành Đại sứ quán Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tại Hà Nội. Đại sứ quán Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được đặt tại thủ đô Washington D.C., cùng với các tổng lãnh sự quán tại San Francisco (tiểu bang California), Houston (tiểu bang Texas) và New York (tiểu bang New York). Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hiện đặt tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến mở thêm một tổng lãnh sự quán tại Đà Nẵng.

Quan hệ ngoại giao giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trở nên sâu sắc và đa dạng hơn trong những năm đã bình thường hóa chính trị. Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực. Hai nước ký kết Hiệp định Thương mại song phương vào tháng 7 năm 2000, bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Tháng 11, 2007, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.

1.Khái quát về hợp tác và các hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kì 

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu phát triển từ những năm 1990. Hai bên đã kí Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả vào năm 1997. Mốc quan trọng trong quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ là việc kí kết Hiệp định thương mại song phương (viết tắt là BTA) năm 2000 điều chỉnh tất cả các lĩnh vực chính trong hợp tác kinh tế giữa hai nước. Theo Hiệp định này, Hoa Kỳ dành cho Việt Nam đối xử MFN có điều kiện, còn gọi là ‘Quy chế quan hệ thương mại bình thường’ (viết tắt là ‘NTR’). Năm 2003, hai nước kí kết Hiệp định dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ. Quan hệ kinh tế và thương mại của giữa hai nước được tăng cường hơn nữa khi Hoa Kỳ trao cho Việt Nam ‘Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn’ (viết tắt là ‘PNTR’) vào ngày 29/12/2006, là một phần của quá trình gia nhập WTO của Việt Nam.Việt Nam chính thức yêu cầu được tham gia vào chương trình Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Hoa Kỳ (viết tắt là ‘GSP’) với tư cách là ‘nước đang phát triển được thụ hưởng’ (viết tắt là ‘BDC’) từ tháng 5/2008, nhưng vẫn chưa có quyết định chính thức về đơn tham gia GSP của Việt Nam. Hai nước đã kí kết Hiệp định khung về thương mại và đầu tư (viết tắt là ‘TIFA’) vào năm 2007. Hiện nay, hai nước đang đàm phán để cùng tham gia Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (viết tắt là ‘TPP’), cũng như Hiệp định đầu tư song phương (viết tắt là ‘BITs’). Với những nỗ lực như vậy, thương mại hai chiều giữa hai bên đã tăng từ khoảng 220 triệu USD năm 1994 lên hơn 20 tỉ USD vào năm 2011.Mục này sẽ tập trung vào khuôn khổ pháp luật về hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

2. Hiệp định Việt Nam-Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả 1997

Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả được kí kết vào ngày 27/6/1997. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 23/12/1998. Hiệp định bảo hộ mọi loại tác phẩm và bản ghi âm có thể được bảo hộ quyền tác giả, bất kể hình thức định hình của chúng, bao gồm cả hình thức điện tử. Các tác phẩm được bảo hộ được định nghĩa là: Tác phẩm mà một công dân hoặc người thường trú của một trong các bên kí kết có những quyền kinh tế theo luật quyền tác giả tại lãnh thổ của bên kia, hoặc khi những quyền nói trên thuộc về pháp nhân do bất kì công dân hoặc người thường trú nào của bên kia kiểm soát trực tiếp, gián tiếp hoặc có quyền sở hữu đối với phần lớn cổ phần hoặc tài sản của pháp nhân, miễn là quyền sở hữu nói trên phát sinh trong vòng một năm, kể từ ngày công bố lần đầu các tác phẩm đó tại một nước thành viên của một điều ước đa phương về quyền tác giả mà một trong các bên kí kết là thành viên tại thời điểm Hiệp định này có hiệu lực. Hiệp định yêu cầu các bên đảm bảo đối xử NT, theo đó, mỗi bên, theo pháp luật và thủ tục của nước mình, sẽ dành cho các tác phẩm của những tác giả, nhà sáng tạo và nghệ sĩ là công dân hoặc người thường trú của bên kí kết kia và cho các tác phẩm công bố lần đầu tại lãnh thổ của bên kí kết kia, sự bảo hộ quyền tác giả không kém thuận lợi hơn sự bảo hộ mà bên đó dành cho công dân nước mình. Hiệp định cũng nêu rõ những quyền độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm tại Điều 5, theo đó người này sẽ có quyền độc quyền cho phép hoặc cấm: – Việc sao chép tác phẩm, sáng tạo tác phẩm khác dựa trên tác phẩm đó và phân phối bản sao của các tác phẩm đó; – Việc trình diễn tác phẩm trước công chúng, trong trường hợp đó là những tác phẩm văn học, âm nhạc, kịch và múa, kịch câm, phim và tác phẩm nghe nhìn; và – Việc trình bày các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả trước công chúng, trong trường hợp đó là tác phẩm văn học, âm nhạc, kịch, múa, kịch câm, hội họa, đồ hoạ, tạo hình, bao gồm cả các ảnh đơn lẻ của một bộ phim hoặc tác phẩm nghe nhìn khác.

3. Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ 2000

Vào ngày 13/7/2000, Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại (viết tắt là ‘BTA’) đã được kí kết. Hiệp định đã đưa quan hệ thương mại và đầu tư song phương giữa hai nước lên tầm cao mới. Hiệp định đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các thị trường lớn tại Hoa Kỳ và khuyến khích Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh. BTA có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. BTA đặt nền tảng cho việc tiến hành và tăng cường các quan hệ thương mại và đầu tư. Với hơn 100 trang và bảng biểu,  BTA quy định các nghĩa vụ chi tiết trong các lĩnh vực hợp tác thương mại chủ yếu của hai bên, như: thương mại hàng hoá, bảo hộ IPRs, thương mại dịch vụ, đầu tư, tạo thuận lợi cho kinh doanh, tính minh bạch và giải quyết tranh chấp.

4.Các quy định về thương mại hàng hoá

Việt Nam và Hoa Kỳ nhất trí dành cho nhau MFN, theo đó các bên sẽ dành cho hàng hoá của nhau sự đối xử tương tự như hàng hoá tương tự sản xuất ở các nước khác. Ngoại lệ của nguyên tắc MFN bao gồm đối xử đặc biệt dành cho các nước trong cùng một FTA như AFTA hay NAFTA, và các thủ tục đặc biệt đối với thương mại ở biên giới. Hơn nữa, BTA yêu cầu Việt Nam và Hoa Kỳ dành NT cho hàng nhập khẩu của nhau. Hai nước có nghĩa vụ đối xử với hàng nhập khẩu của nhau không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hoá do công dân của mình sản xuất. Các bên phải loại bỏ tất cả NTBs, bao gồm cả hạn chế nhập khẩu và xuất khẩu, hạn ngạch, yêu cầu cấp phép, và kiểm soát đối với tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, trong thời gian từ 3 đến 7 năm, tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm. Cơ quan hải quan hay cơ quan có thẩm quyền khác của các bên không được phép áp bất cứ loại phí hay phụ phí hành chính nào liên quan đến việc nhập khẩu hay xuất khẩu hàng hóa vượt quá chi phí thực của dịch vụ được tiến hành bởi cơ quan đó. Việt Nam áp thuế quan cho hàng hoá có xuất xứ từ lãnh thổ hải quan Hoa Kỳ theo cam kết của Hiệp định. Về các biện pháp tự vệ đối với hàng nhập khẩu, Các bên nhất trí tham vấn nhanh chóng theo yêu cầu của bên kia, khi việc nhập khẩu hàng hoá có xuất xứ từ lãnh thổ của bên kí kết kia, tại thời điểm hiện tại hay tương lai, gây ra hay đe dọa gây ra, hay góp phần đáng kể làm rối loạn thị trường. Sự ‘rối loạn thị trường’ (‘Market disruptions’) xảy ra khi việc tăng nhanh lượng nhập khẩu hàng hoá tương tự của nước khác là nguyên nhân đáng kể gây ra, hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành kinh tế nội địa đó. Trong trường hợp các bên không thể đưa ra biện pháp khắc phục thông qua tham vấn, Hiệp định cho phép một bên bảo hộ ngành kinh tế nội địa của mình bằng cách áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng nhập khẩu, dưới hình thức hạn chế số lượng, tăng thuế hoặc những hạn chế khác để chống lại sự ‘rối loạn thị trường’. Về giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thương nhân, BTA quy định nguyên tắc NT trong việc giải quyết tranh chấp tại các toà án và cơ quan hành chính trên lãnh thổ của các bên kí kết, khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài theo những quy tắc đã được công nhận ở tầm quốc tế và quy định việc thực thi các phán quyết trọng tài.

5. Các quy định về quyền sở hữu trí tuệ (IPRs)

Về IPRs của BTA được xây dựng theo mô hình của Hiệp định TRIPS của WTO, theo đó yêu cầu các bên tuân thủ những quy định cơ bản của Công ước Pa-ri về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Công ước Béc-nơ về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngoài ra, các bên cũng phải tuân thủ những quy định kinh tế cơ bản của Công ước Giơ-ne-vơ về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép, Công ước quốc tế về bảo hộ giống thực vật mới (Công ước UPOV) và Công ước liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước Brúc-xen). BTA quy định NT trong việc việc xác lập, bảo hộ, hưởng và thực thi IPRs, trừ một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, khác với Hiệp định TRIPS, BTA không yêu cầu các bên áp dụng MFN cho các nghĩa vụ trong chương này. Chương II quy định những tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ và thực thi IPRs, bao gồm quyền tác giả và các quyền liên quan, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, thông tin bí mật (bí mật thương mại) và kiểu dáng công nghiệp. Chương này cũng yêu cầu có các biện pháp bảo đảm thực thi để đưa ra các chế tài kịp thời nhằm ngăn chặn vi phạm, và các chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa các vi phạm có thể tái diễn trong tương lai.

Luật LVN Group(sưu tầm và biên tập)