1. Khái niệm tự thú và đầu thú ? Phân biệt tự thú và đầu thú
Khái niệm “tự thú” và “đầu thú” giải thích như sau:
“Tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.
“Đầu thú” là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, khẳng định rằng “tự thú” và “đầu thú” là hai hành vi hoàn toàn khác nhau. Cụ thể:
– Tự thú là mình tự nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội.
– Đầu thú là có người đã biết mình phạm tội, bản thân người phạm tội biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp tự thú và trong trường hợp đầu thú:
Theo quy định tại điểm o, Khoản 1, Điều 49 “Bộ luật hình sự năm 2015”, sửa đổi bổ sung năm 2009 người phạm tội tự thú sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có quy định đầu thú là tình tiết giảm nhẹ, nhưng khoản 2 điều 46 có quy định: “Khi quyết định hình phạt, tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Như vậy việc người phạm tội đầu thú có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 199, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đến nay chưa có văn bản pháp quy nào hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội đầu thú. Do đó để hướng dẫn các vấn đề về nghiệp vụ đảm bảo cho việc áp dụng các quy định một cách thống nhất, Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn cụ thể trong Công văn số 81/2002 như sau:
– Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” quy định tại khoản 1 Điều 46 “Bộ luật hình sự năm 2015” đối với người phạm tội.
– Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng khoản 2 Điều 46 “Bộ luật hình sự năm 2015” để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Tuy nhiên, cần chú ý là, trong trường hợp này, nếu người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc có những việc làm khác thuộc trường hợp được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 46 “Bộ luật hình sự năm 2015”.
2.Ý nghĩa của việc người phạm tội tự thú, đầu thú
– Quy định trường hợp tự thú trong pháp luật là thể hiện chính sách khoan hồng nhất quán của Nhà nước ta, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với những người lầm lỗi mà chịu ăn năn hối cải. Thành tâm tự thú là một hành vi tích cực và là biểu hiện của sự ăn năn muốn hối cải của người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm pháp.
– Luật hình sự quy định việc người phạm tội tự thú là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quy định về tự thú còn là quy định mang tính phòng ngừa tích cực. Hành vi tự thú không chỉ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật sớm khám phá ra tội phạm và ngăn chặn được những hành vi tiếp tục thực hiện tội phạm mà còn tác động tích cực đếnnhững đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội, làm cho các đối tượng này phải hoang mang, dao động mà tự kiềm chế các hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình.
– Tự thú còn có ý nghĩa tích cực ở chỗ, làm giảm bớt những chi phí cần thiết cho việc điều tra, truy bắt đối tượng phạm tội; rút ngắn thời hạn thực hiện các hành vi tố tụng. Vì những ý nghĩa đó, pháp luật tố tụng hình sự của nước ta, luôn khuyến khích tự thú. Cũng chính vì vậy mà luật cũng quy định những thủ tục tố tụng và các điều kiện pháp lý khác có lợi cho người tự thú.
3.Khi có người tự thú, đầu thú cơ quan tổ chức cần phải làm gì ?
Chào Luật sư của LVN Group, khi có người đến tự thú, đầu thú thì cơ quan, tổ chức cần phải làm gì mới đúng quy định của pháp luật ?
Luật sư trả lời:
Căn cứ vào khoản 1 điều 152 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :
Điều 152. Người phạm tội tự thú, đầu thú
1. Khi người phạm tội đến tự thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú, đầu thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú có trách nhiệm thông báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
2. Trường hợp xác định tội phạm do người tự thú, đầu thú thực hiện không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì Cơ quan điều tra tiếp nhận người tự thú, đầu thú phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp nhận, giải quyết.
3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
4.Quy định về tự thú, đầu thú trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
– Quy định trường hợp tự thú trong pháp luật là thể hiện chính sách khoan hồng nhất quán của Nhà nước ta, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với những người lầm lỗi mà chịu ăn năn hối cải. Thành tâm tự thú là một hành vi tích cực và là biểu hiện của sự ăn năn muốn hối cải của người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm pháp. Luật hình sự quy định việc người phạm tội tự thú là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quy định về tự thú còn là quy định mang tính phòng ngừa tích cực. Hành vi tự thú không chỉ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật sớm khám phá ra tội phạm và ngăn chặn được những hành vi tiếp tục thực hiện tội phạm mà còn tác động tích cực đến những đối tượng khác đã hoặc đang có hành vi phạm tội, làm cho các đối tượng này phải hoang mang, dao động mà tự kiềm chế các hành vi và ý đồ thực hiện tội phạm của mình. Tự thú còn có ý nghĩa tích cực ở chỗ, làm giảm bớt những chi phí cần thiết cho việc điều tra, truy bắt đối tượng phạm tội; rút ngắn thời hạn thực hiện các hành vi tố tụng. Vì những ý nghĩa đó, pháp luật tố tụng hình sự của nước ta, luôn khuyến khích tự thú. Cũng chính vì vậy mà luật cũng quy định những thủ tục tố tụng và các điều kiện pháp lý khác có lợi cho người tự thú.
– Người tự thú là người sau khi có hành vi phạm tội đã tự ăn năn về tội lỗi của mình mà tự nguyện khai báo và giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nhanh chóng làm rõ các tình tiết của vụ án và ngăn chặn các hành vi phạm tội khác. Người phạm tội được coi là tự thú khi chính người đó tự đến cơ quan có trách nhiệm khai báo đầy đủ về hành vi phạm tội của mình. Người tự thú bao gồm: những người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát giác hoặc đã bị phát hiện, bị giam giữ, bị phạt tù đã bỏ trốn hoặc đang bị truy nã mà ra tự thú.
– Khi có người phạm tội tự thú thì cơ quan tiếp nhận (cán bộ tiếp nhận) phải lập biên bản về việc tự thú. Biên bản phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người tự thú, hành vi mà họ đã phạm tội, những tài liệu, vật chứng, dụng cụ gây án, tài sản và tất cả các tình tiết khác có liên quan…
+ Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì chỉ có Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát mới có thẩm quyền giải quyết những vấn đề liên quan đến việc tự thú. Nếu việc tự thú do cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận thì cơ quan, tổ chức này phải chuyển ngay biên bản đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết.
+ Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiếp nhận người tự thú phải kịp thời thực hiện các yêu cầu và các hoạt động theo quy định của pháp luật và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả đồng thời đảm bảo những biện pháp cần thiết để giải quyết vụ án.
+ Vì lời tự thú là một tài liệu rất quan trọng để giải quyết vụ án nên cơ quan điều tra phải kiểm tra kỹ những thông tin trong lời tự thú. Phải làm rõ động cơ, mục đích của người tự thú, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ khác để xem lời tự thú có chính xác và đúng đắn hay không nhằm loại trừ các trường hợp tự thú về tội nhẹ để che giấu tội nặng hơn hoặc nhận tội thay cho người khác. Kiểm tra kỹ họ, tên, giấy tờ tùy thân. Yêu cầu khai rõ những nơi cư trú và thời gian trước khi ra tự thú, những ai biết về hành vi mà người phạm tội tự thú; những tên và bí danh khác của người tự thú…
+ Trên cơ sở những thông tin có trong lời khai của người tự thú, cơ quan điều tra tiến hành xác minh làm rõ: có hay không có dấu hiệu của tội phạm trong hành vi của người tự thú; những dấu hiệu tội phạm cụ thể trong lời khai của người tự thú là gì; có đủ căn cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không.
Chỉ sau khi đã kiểm tra xác minh để đi đến kết luận rằng có dấu hiệu tội phạm trong sự việc mà người tự thú khai báo mới được quyết định khởi tố vụ án hình sự.
– Để khắc phục hiện tượng thông tin về tội phạm không tập trung, dẫn đến bỏ lọt tội phạm giải quyết chậm trễ các vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, quy định không chỉ bắt buộc cơ quan tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của người tự thú khi có người phạm tội đến tự thú, mà còn quy định bổ sung bắt buộc các cơ quan tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát. Điều này cũng giúp cho các cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận người tự thú biết những địa chỉ cụ thể để chuyển người tự thú đến đó, khắc phục tình trạng chậm trễ. Đồng thời quy định đó cũng là tăng cường trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan, tổ chức trong xã hội chúng ta.
5.Cơ quan có thẩm quyền
– Sau khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
– Cơ quan điều tra tiếp nhận người tự thú, đầu thú phải kiểm tra xem tội phạm tự thú, đầu thú có thuộc thâm quyên điêu tra của mình hay không. Nếu thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, việc thông báo phải bằng văn bản. Trong trường hợp xác định tội phạm tự thú, đầu thú không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì Cơ quan điều tra tiêp nhận tự thú, đâu thú phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thầm quyền đề tiếp nhận, giải quyết.