Công ty chúng tôi cung cấp hàng hoá, đối tác mua lại và bán cho công ty khác. Tới tháng 7/2015 phía đối tác mới chuyển trả cho phía công ty chúng tôi 50 triệu đồng (trả cho có nhưng vẫn chây ỳ). Trong thời gian thực hiện hợp đồng, Công ty chúng tôi đã bị đối tác lợi dụng lòng tin để tiếp tục cung cấp hàng hoá cho họ với các lý do: đang khó khăn tài chính, “phía bên kia của họ” chưa thanh toán, không có tiền, “phía bên kia của họ” mới bị Công an kinh tế sờ gáy và bị phạt… Nhưng qua tìm hiểu của chúng tôi: – Họ có khó khăn kinh tế nhất định nhưng vẫn có tiền hoạt động, thậm chí còn dựng xưởng mới, có tiền từ dự án vừa hoàn thành (dự án khác không nằm trong phạm vi hợp đồng này), nhận thêm dự án mới… – Phía công ty mà họ bán lại hàng do bên công ty chúng tôi cung cấp có bị Công an kinh tế phạt nhưng là năm 2014, số tiền phạt là 60 triệu chứ không thiệt hại nặng nề như đối tác miêu tả. Liệu công ty chúng tôi có thể khởi kiện công ty đối tác (kiện dân sự), tố cáo hành vi lạm dụng của giám đốc công ty đối tác không (khởi tố hình sự)? Và nơi nhận các yêu cầu này có thể là công an tỉnh không (do bên CA huyện của đối tác, họ có “chân rết”)?

Tôi xin chân thành cảm ơn. 

Câu hỏi được biên tập từchuyên mục tư vấn Luật dân sự Công ty Luật LVN Group.

Trả lời:

Đối với câu hỏi của bạn công ty Luật LVN Group xin hỗ trợ bạn trả lời như sau:

Căn cứ pháp lý.

– Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011.

– Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.

– Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

Nội dung trả lời.

Đối với tình huống của bạn đưa ra thì bạn có thể lựa chọn một trong 2 phương án đó là khởi kiện công ty đối tác về hành vi không thực hiện đúng hợp đồng hoặc tố giác hành vi phạm tội đối với cơ quan công an.

Đối với trường hợp công ty đối tác của bạn có sự vi phạm những điều khoản nội dung dã ghi trong hợp đồng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp thì bạn có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, sinh sống, có trụ sở để giải quyết vấn đề của mình theo quy định tại khoản 2 điều 56 bộ luật tố tụng hình sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 quy định cụ thể như sau.

” Điều 56. Đương sự trong vụ án dân sự

2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.

Như vậy bạn có thể khởi kiện ra ra tòa án để giải quyết quyền và lợi ích của mình.

Về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì có thể căn cứ vào điều 140 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy định 

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

  a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

  b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ  năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm;

e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.”

Bạn có thể gửi đơn tố cáo hành vi này lên cơ quan công an cấp Tỉnh theo quy định tại khoản 1 điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự 2003

Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm.

Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.

Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.” 

Sau đó trách nhiệm của cơ quan nhận tin tố giác sẽ phải báo cho cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra bằng văn bản theo đúng thẩm quyền điều tra quy định tại khoản 4 điều 110 Luật tố tụng hình sự 2003.

Điều 110. Thẩm quyền điều tra 

4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.”

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.

Trân trọng./.

BỘ PHẬN TƯ VẤN LUẬT DÂN SỰ – HÌNH SỰ.