1. Chủ trương “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng

1.1. Nội dung chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25/11/1945

Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”; nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”.

Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao phải đặc biệt chú ý “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”; đối với Tàu Tưởng nêu chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Về tuyên truyền, hết sức kêu gọi đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; “đặc biệt chống mọi mưu mô phá hoại chia rẽ của bọn Trốtxkit, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng ”. 

1.2. Kết quả của Đảng trong cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương giai đoạn 1945-1946

Thực hiện tốt chủ trương “kháng chiến kiến quốc”, Đảng và dân ta đã có những thành quả hết sức to lớn trên tất cả các lĩnh vực.

Về mặt chính trị, bầu cử thành công đã bầu ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3-1946 và lập ra Chính phủ chính thức. Các địa phương cũng tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn Ủy ban hành chính các cấp. Ban soạn thảo bản Hiến pháp mới được thành lập do Hồ Chí Minh làm trưởng ban và tới kỳ họp thứ 2 (9-11-1946), Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).

Nền kinh tế ngay từ năm đầu, sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt. Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.

Về văn hoá, chúng ta vừa chống lại văn hoá nô dịch, vừa xây dựng nền văn hoá mới. Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới; thành lập Trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Đến cuối năm 1946, cả nước đã có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.

Về ngoại giao, Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, vạch trần âm mưu, hành động của bọn thực dân xâm lược, tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Trên mặt quân sự, mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập trung chống Pháp ở Nam Bộ. Lực lượng vũ trang cách mạng được củng cố và tổ chức lại; tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực, thuốc men, củng cố các cơ sở và căn cứ địa cách mạng cả ở miền Bắc, miền Nam. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an được tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân, tự vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí Nam.

1.3. Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1945-1946

Từ việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương “kháng chiến kiến quốc” giai đoạn 1945-1946 đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị của một chính Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân – thành quả cao nhất của Cách mạng tháng Tám 1945, tạo tiền đề cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng vả bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hoà hoãn, thêm bạn bớt thù để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.

2. Phát huy những kinh nghiệm từ sách lược của Đảng trong giai đoạn 1945-1946 vào thực tiễn hiện nay

Thứ nhất, bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng

Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình trong nước và thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng bài học này vào việc đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhằm tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua việc từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế thương mại đầu tư với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ với các nước láng giềng, khi vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế – chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn. Với vai trò mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa, ngành ngoại giao đã khai thông, mở rộng và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều sâu; đi tiên phong trong việc mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác quốc tế mới. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có được quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi và bình đẳng với các nước ở khắp các châu lục như ngày nay. Vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Để nhằm nâng cao vị thế đó trước hết giúp cho Đảng và Nhà nước ta chống lại các thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mặt khác, nâng cao vị thế còn tạo uy tín cho Việt Nam trên trường quốc tế, điều này được thể hiện thông qua việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc sau khi đạt số phiếu gần như tuyệt đối (183/190) vào năm 2007. Đối với các nước trong khu vực, Việt Nam còn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức ASEAN.Tiếp tục phát huy thành quả đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ một trong ba mục tiêu đối ngoại và hội nhập kinh tế trong thời gian tới của Việt Nam là: “nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Thứ hai là bài học biết phân hóa kẻ thù.

Nhờ nhãn quan chính trị sáng suốt và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình, vào thời điểm khi cả Pháp và Trung Hoa Dân quốc đều cần phía Việt Nam thỏa thuận với Pháp về một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được để tránh cuộc xung đột mở rộng, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, ký bản Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được đối với Việt Nam, để nhanh chóng đẩy 20 vạn quận Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ra khỏi nước ta, chuẩn bị thực lực cho một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh khỏi. Có thể nói với sự phân định về “bạn và thù” trong thời kỳ trước đây chính là cơ sở cho Đảng ta định hình quan điểm “đối tác, đối tượng” trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế. Với sự kế thừa những giá trị của Đảng trong hoạt động đối ngoại đó đã giúp cho Việt nam có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Đồng thời, tranh thủ khai thác, phát huy được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế – xã hội, hạn chế được những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đến năm 2016, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược theo ngành với 2 nước; xác lập quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước; trở thành nước duy nhất tại Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nước lớn; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác toàn diện với Campuchia; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có vai trò quan trọng ở các khu vực khác như châu Phi, Mỹ La-tinh…

Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có nguyên tắc

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông có nhiều biến đổi khôn lường khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển ở Việt Nam trở thành nhiệm vụ khó khăn với nhiều thách thức. Từ bài học lịch sử trên, Đảng và Nhà nước ta đã có sự kế thừa và vận dụng sáng tạo vào hoạt động đối ngoại trong thời kỳ mới. Dân tộc ta vốn đã từng hy sinh, tổn thất quá nhiều trong chiến tranh nên hơn ai hết chúng ta rất yêu chuộng hòa bình. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương giải quyết mọi vấn đề bằng con đường hòa bình, thương thảo, hữu nghị, pháp lý chứ không bao giờ nhân nhượng, đặc biệt trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ.

Với chủ trương trên trong thời gian vừa qua, khi Trung Quốc công bố “đường lưỡi bò chín khúc”, gây ra các vụ tranh chấp trên Biển Đông với các nước trong đó có Việt Nam. Đặc biệt tháng 5/2014, Trung Quốc đã hạ đặtt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, sau đó còn liên tiếp gây khó khăn cho ngư dân của ta trong việc đánh bắt xa bờ. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương khéo léo nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo như: kiên quyết yêu cầu Trung Quốc di chuyển giàn khoan và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam; tuyên truyền để nhân dân và Chính phủ các nước hiểu hơn về chủ quyền của Việt Nam; kêu gọi nghị viện các nước lên tiếng, trước hết là phải tuân thủ luật pháp Quốc tế, đặc biệt là Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc là một thành viên cũng phải tuân thủ; cung cấp tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế. Đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ để góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng-an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạn. Từ đó kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.