1. Phương pháp tiến hành pháp điển hóa

Pháp điển hóa thường được thực hiện theo hai phương pháp cơ bản là pháp điển hóa về mặt nội dung và pháp điển hóa về mặt hình thức.

a) Pháp điển hóa nội dung là cách hiểu về pháp điển hóa mang tính truyền thống. Theo đó, pháp điển hóa là việc xây dựng một bộ luật trên cơ sở tập hợp các quy định hiện hành, loại bỏ các quy định không phù hợp; bổ sung, dự liệu những quy định mới để đáp ứng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đang phát triển.

Pháp điển hóa về mặt nội dung còn được gọi theo các cách khác nhau như pháp điển hóa lập pháp, pháp

điển hóa truyền thống, pháp điển hóa có tạo ra quy phạm mới V.V.. Như đã nói trên, trong lịch sử, đã có nhiều bộ luật nổi tiếng được thực hiện theo hình thức pháp điển này như công cuộc pháp điển hóa ở các nước châu Âu vào các thể kỷ XVIII, XIX mà ví dụ điển hình là Bộ luật dân sự Pháp năm 1804. Việc xây dựng các bộ luật của nước ta như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự; Bộ luật lao động… được thực hiện theo hình thức pháp điển này.

Cách thức pháp điển này có đặc điểm là gắn bó chặt chẽ với hoạt động lập pháp. Việc pháp điển hóa cũng chính là quá trình soạn thảo văn bản pháp luật mới trên cơ sở rà soát các quy phạm hiện hành, luật hóa một số quy định dưới luật hoặc có tính quy phạm được thừa nhận trong xã hội, xây dựng những quy định mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Pháp điển hóa nội dung có một số đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xét từ góc độ hệ thống hóa pháp luật, pháp điển hóa là hình thức cao nhất của hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Mới đây nhất, trong cuốn sách “Pháp điển hóa luật tư của nước Nga” do Viện Nghiên cứu luật tư trực thuộc Tổng thống Liên bang Nga xuất bản, chủ biên là Ngài Medvedev – nguyên Tổng thống của Liên bang Nga (hiện là Thủ tướng Liên bang Nga) đã coi pháp điển hóa là một phương thức hệ thống hóa pháp luật cấp tiến nhát, là một dạng sáng tạo pháp luật đặc biệt. Pháp điển hóa là một hoạt động có tính sáng tạo được tiến hành theo những trình tự luật định, không những để loại bỏ những văn bản, quy phạm pháp luật lỗi thời mà còn xây dựng, bổ sung những quy phạm mới. Kết quả của quá trình pháp điển hóa thường là một văn bản pháp luật mới ra đời hoặc có giá trị pháp lý cao hơn, có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn, có kỹ thuật pháp lý hoàn chỉnh hơn hoặc đáp ứng tất cả các yêu cầu đó;

Thứ hai, xét từ góc độ thẩm quyền, hoạt động pháp điển hóa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.

b) Pháp điển hóa hình thức là việc tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề với những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết (chủ yếu về mặt kỹ thuật) nhằm làm cho các quy định này phù hợp với nhau nhưng vẫn bảo đảm trật tự pháp lý của các quy định.

Về nguyên tắc, việc sửa đổi, điều chỉnh trong quá trình pháp điển hóa nhằm mục đích tạo nên sự hài hòa giữa các quy định, bảo đảm trật tự của bộ pháp điển mà không hướng tới việc tạo ra những chính sách pháp luật mới và các quy định pháp luật đang có hiệu lực được tôn trọng một cách tối đa. Ở nhiều nước, kết quả cuối cùng của quá trình pháp điển hóa hình thức là các bộ pháp điển được cơ quan có thẩm quyền thông qua theo hình thức tương tự như xem xét, thông qua một văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do bộ pháp điển không quy định những chính sách pháp luật mới, nên sẽ được thống qua nhanh chóng, không mất nhiều thời gian cho việc thảo luận, tranh cãi về chính sách. Việc được cơ quan lập pháp thông qua chỉ mang ý nghĩa xác nhận giá trị pháp lý thi hành của bộ pháp điển, ghi nhận, sắp xếp những quy định hiện hành, có hiệu lực trong lĩnh vực được xác định và xác nhận những sửa đổi mang tính kỹ thuật nhằm bảo đảm sự hài hòa và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Cần lưu ý là, có việc pháp điển không chính thức do các nhà xuất bản hoặc các công ty luật tư nhân thực hiện với kỹ thuật tương tự như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, vì không chính thức nên các bộ pháp, điển này chỉ có tính chất tham khảo, không có giá trị viện dẫn trước Tòa án.

Như vậy, trong khi làm luật là một hoạt động mang tính chính trị, thể hiện bản chất của thể chế chính trị, nhằm xác định các nội dung cần điều chỉnh và quyết định chính sách pháp luật phù hợp đối với các nội dung này (tạo ra các quy phạm pháp luật, các đạo luật) thì, pháp điển hóa hình thức được nhìn nhận như một công việc mang tính kỹ thuật của các nhà chuyên môn, làm cho các chính sách pháp luật được thể hiện dưới hình thức logic, có hệ thống và dễ tiếp cận nhất (dưới hình thức các bộ luật – bộ pháp điển). Để đơn giản; có thể ví hoạt động làm luật như việc sản xuất ra một loại sản phẩm, hàng hóa nào đó còn pháp điển hóa chính là công đoạn đóng gói, sắp xếp, trưng bày sản phẩm, hàng hóa này sao cho bắt mắt và tiện lợi cho người tiêu dùng. Do đó, mặc dù trình độ phát triển của hệ thống pháp luật phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của việc làm luật, cụ thể là chất lượng của các chính sách pháp luật được thông qua (các chính sách này có ổn định, có phù hợp với từng thời kỳ không, điều chỉnh các quan hệ xã hội đang diễn ra có hiệu quả hay không và có bảo đảm tính dự báo trước không…), song cũng không thể phủ nhận vai trò của hoạt động pháp điển hóa. Chính công tác này đã góp phần làm cho các chính sách pháp luật đến được với các đối tượng cần áp dụng.

2. Về phương pháp tiến hành pháp điển hóa bằng cách xây dựng bộ luật mới

Như đã trình bày ở phần trên, pháp điển hóa bằng cách xây dựng các bộ luật mới (hay pháp điển hóa về mặt nội dung) chính là quá trình làm ra các bộ luật – ban hành ra các bộ luật trên cơ sở rà soát, chọn lọc và kế thừa các nguyên tắc, quy phạm, văn bản pháp luật sẵn có, đồng thời, luật hóa một số quy định dưới luật hoặc có tính quy phạm được thừa nhận trong xã hội, dự liệu và ban hành mới các nguyên tắc, quy phạm pháp luật cần phải có, phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Kết quả của quá trình pháp điển hóa thường là một văn bản pháp luật mới ra đời hoặc có giá trị pháp lý cao hơn, có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bao quát hơn, có kỹ thuật pháp lý hoàn chỉnh hơn hoặc đáp ứng tất cả các yêu cầu đó. Văn bản này được chuẩn bị và thống qua như một dự án luật thông thường. Thực chất, ở các nước áp dụng cách thức pháp điển này, hoạt động pháp điển hầu như không có điểm gì khác so với hoạt động lập pháp.

3. Về phạm vi tiến hành pháp điển bằng cách xây dựng một bộ luật mới

Tham khảo kinh nghiệm các nước, đặc biệt là ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu thì, pháp điển hóa chủ yếu là theo lĩnh vực pháp luật và chuyên ngành sâu. Xu hướng chưng ở các nước này là, đưa các quy định trong những đạo luật khác nhau vào những bộ luật lớn. Chẳng hạn, liên quan đến pháp luật thương mại, pháp điển hóa ở các nước này đã không theo cách tiếp cận truyền thống ban hành bộ luật thương mại tách biệt khỏi bộ luật dân sự, mà đưa các quy định của luật thương mại vào bộ luật dân sự (Liên bang Nga, các nước thuộc Liên Xô (cũ), Slovakia, Hungary, Cộng hòa Séc).

Trong một số lĩnh vực, việc xây dựng một bộ luật duy nhất bao quát toàn bộ các quy phạm về kỹ thuật, tiêu chuẩn, danh mục trong lĩnh vực liên quan… là không khả thi, vì các quy phạm loại này luôn thay đổi nhanh chóng theo sự phát triển của khoa học – công nghệ. Chính vì vậy, ở một số nước, việc pháp điển hóa được tiến hành trên nhiều cấp độ khác nhau. Chẳng hạn như ở Slovakia, người ta vừa tiến hành “pháp điển hóa quy mô lớn” để tạo ra một lĩnh vực pháp luật mới, vừa tiến hành “pháp điển hóa đơn giản” nhằm tập hợp các bộ phận của hệ thống pháp luật đang rất “bề bộn” vào trong một văn bản duy nhất.

4. Về chủ thể thực hiện pháp điển hóa bằng cách xây dựng một bộ luật mới

Pháp điển hóa nội dung gắn với hoạt động lập pháp, nên về cơ bản các chủ thể tham gia vào quy trình lập pháp cũng đồng thời là người tiên hành pháp điển hóa. Do vậy, các bộ luật là sản phẩm của quá trình pháp điển hóa cũng phải trải qua các công đoạn soạn thảo (thường do các cơ quan thuộc Chính phủ chuẩn bị), thẩm tra (do các ủy ban của nghị viện thực hiện) và được thông qua tại nghị viện.

Tuy vậy, tùy theo yêu cầu, điều kiện của từng nơi mà một số quốc gia vẫn thành lập những cơ quan chuyên biệt về pháp điển hóa để tiến hành pháp điển pháp luật nói chung hoặc pháp điển hóa theo từng lĩnh vực như luật dân sự, luật lao động, luật hình sự, luật môi trường… Ví dụ ở Slovakia, có ủy ban pháp điển hóa thuộc Bộ Tư pháp được thành lập năm 2007; Ba Lan có ủy ban pháp điển hóa chung nằm trong Bộ Tư pháp và ủy ban pháp điển hóa pháp luật lao động do Bộ Lao động thành lập năm 2002; ở Cộng hòa Séc có các ủy ban pháp điển hóa pháp luật hình sự được thành lập năm 1995 và năm 1997 trực thuộc Bộ Tư pháp có gần 40 thành viên; ở Hungary, có ủy ban pháp điển hóa pháp luật dân sự có nhiệm vụ xây dựng Bộ luật dân sự mới; ở Nga có Hội đồng pháp điển hóa và hoàn thiện pháp luật dân sự trực thuộc Tổng thống Liên bang Nga… Nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan này là xây dựng hoặc tư vấn cho Chính phủ trong việc xây dựng pháp luật một cách có hệ thống, thống nhất, theo trục các bộ luật lớn.

5. Kết quả của quá trình pháp điển hóa bằng cách xây dựng một bộ luật mới

Về giá trị pháp lý, do đều được soạn thảo, thông qua theo quy trình xây dựng pháp luật chung, nên các bộ luật được pháp điển theo cách này không có gì khác so với các văn bản pháp luật đơn lẻ khác. Điểm khác biệt duy nhất ở đây chỉ là mức độ, quy mô của văn bản.

Với mong muốn đơn giản hóa pháp luật, làm cho pháp luật ngày một minh bạch, rõ ràng, có sự ổn định tương đối để có thể phát huy tác dụng trong một thời gian dài, các nhà pháp điển đã cố gắng hợp nhất, gồm các văn bản quy phạm sẵn có để xây dựng các bộ luật với quy mô ngày càng lớn, cấu trúc gồm nhiều phần, bao hàm phạm vi được điều chỉnh ngày càng rộng.

Tuy nhiên, quá trình đó cũng gặp phải những khó khăn đáng kể. Đó là thể giới đang trong giai đoạn biến đổi nhanh chóng, các quan hệ xã hội mới phát sinh nhiều cũng như thay đổi liên tục đòi hỏi các nhà lập pháp phải có những phản ứng tức thời. Trong khi đó, việc cho ra đời của những bộ luật đồ sộ thường mất rất nhiều thời gian để thảo luận, xem xét, thông qua cũng như sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, các đạo luật mới ra đời muôn bảo đảm tính linh hoạt thì phải dừng lại ở mức độ luật khung, mang tính nguyên tắc mà thiếu đi các quy định chi tiết, rõ ràng và do đó, ý nghĩa thực tiễn của các bộ luật này là không cao.

Với quy trình xây dựng và cách thức cập nhật các bộ pháp điển như đã nêu thì khả năng tiến hành pháp điển hóa về mặt nội dung đối với toàn bộ hệ thống pháp luật gần như là không khả thi. Các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ có thể tự rà soát, pháp điển trong phạm vi các quy định thuộc thẩm quyền ban hành của mình hoặc trong phạm vi lĩnh vực mà mình phụ trách. Do đó, nếu khâu kết nối, phối hợp giữa các cơ quan này không được làm tốt sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa nội dung quy định của các cơ quan. Việc đơn giản hóa pháp luật vì vậy cũng khó đạt được.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)

Trân trọng!