1. Vài nét về Knut Wicksell
Wicksell sinh ra tại Stockholm vào ngày 20 tháng 12 năm 1851. Cha của ông là một doanh nhân và nhà môi giới bất động sản tương đối thành công. Anh mất cả cha lẫn mẹ khi còn khá sớm. Mẹ anh mất khi anh mới sáu tuổi, và cha anh mất khi anh mười lăm tuổi. Gia sản đáng kể của cha ông cho phép ông ghi danh vào Đại học Uppsala vào năm 1869 để nghiên cứu toán học và vật lý.
Ông nhận bằng đầu tiên trong hai năm, và ông tham gia vào các nghiên cứu sau đại học cho đến năm 1885, khi ông nhận bằng tiến sĩ toán học. Năm 1887, Wicksell nhận được học bổng để nghiên cứu về Lục địa, nơi ông đã nghe các bài giảng của nhà kinh tế học Carl Menger ở Vienna. Trong những năm tiếp theo, sở thích của ông bắt đầu chuyển sang các ngành khoa học xã hội, đặc biệt là kinh tế học.
2. Sự nghiệp
Khi còn là giảng viên tại Uppsala, Wicksell thu hút sự chú ý vì những quan điểm của mình về lao động. Tại một buổi diễn thuyết, ông đã lên án việc say rượu và mại dâm là xa lánh, xuống cấp và bần cùng. Mặc dù đôi khi ông được coi là một người theo chủ nghĩa xã hội, nhưng giải pháp của ông cho vấn đề này là Malthusian quyết định ủng hộ việc kiểm soát sinh sản, điều mà ông sẽ bảo vệ đến cuối đời. Những ý tưởng rực lửa của ông đã thu hút một số sự chú ý, nhưng tác phẩm đầu tiên của ông về kinh tế, Giá trị, Vốn và Tiền thuê (1892), hầu như không được chú ý. Năm 1896, ông xuất bản Nghiên cứu về lý thuyết Tài chính công và áp dụng các ý tưởng của chủ nghĩa cận biên vào việc đánh thuế lũy tiến, hàng hóa công và các khía cạnh khác của chính sách công, thu hút nhiều sự quan tâm hơn.
Wicksell kết hôn với Anna Bugge vào năm 1887. Kinh tế ở Thụy Điển vào thời điểm đó được giảng dạy như một phần của trường luật, và Wicksell đã không thể giành được một chiếc ghế cho đến khi ông được cấp bằng luật. Theo đó, ông quay trở lại Đại học Uppsala, nơi ông hoàn thành khóa học 4 năm về luật thông thường trong hai năm, và ông trở thành phó giáo sư tại trường đại học đó vào năm 1899. Năm tiếp theo, ông trở thành giáo sư chính thức tại Đại học Lund , nơi anh ấy sẽ đảm nhận công việc có ảnh hưởng nhất của mình.
Sau khi thuyết trình vào năm 1908 châm biếm sự ra đời của Đức Trinh Nữ của Chúa Giê- su, Wicksell bị coi là phạm tội báng bổ và bị bỏ tù hai tháng vào năm 1910.
3. Lý thuyết tiền tệ
Nhà kinh tế học Thụy Điển Knut Wicksell (1851-1926) đã mở rộng khuôn khổ của Walras liên quan đến lý thuyết Tiền tệ, ông phản đối sự phát biểu có hệ thống chuẩn cơ học chẳng hạn như phát biểu của Irving Fisher. Hai vấn đề được Wicksell tiến hành phân tích về lý thuyết số lượng đã giúp ông có vị trí trong lý thuyết Tiền tệ hiện đại. Thứ nhất, Wicksell hiểu và thực hiện gợi ý của Thomas Tooke (1779-1858), nhà phê bình đầu tiên về lý thuyết số lượng và khẳng định giá cả được quyết định bằng thu nhập (nghĩa là tiền tệ tác động thông qua thu nhập để quyết định mức giá tổng hợp). Thứ hai, Wicksell sử dụng phân tích hai lãi suất của Thornton để nhấn mạnh vai trò lãi suất trong lý thuyết Tiền tệ.
Trong khi phát biểu lại lý thuyết số lượng, Wicksell tiến hành bước quan trọng hướng liên quan đến việc sáp nhập lý thuyết Tiền tệ với lý thuyết Giá trị. Ông xây dựng khuôn khổ tổng cung tổng cầu để nghiên cứu thay đổi về giá, như trong đoạn sau:
“Mỗi lần tăng hay giảm giá một hàng hóa đặc biệt phải đoán trước xáo trộn trong cân bằng giữa cung và cầu của mặt hàng ấy, liệu sự xáo trộn thực sự có diễn ra hay chỉ đơn thuần là dự đoán. Những gì là đúng trong mối liên hệ của mỗi mặt hàng nói riêng này chắc chắn cũng đúng đôi với tất cả các mặt hàng nói chung. Sự tăng giá chung vì thế chỉ có thể nhận thức dựa vào giả định rằng tổng cầu vì một lý do nào đó đang, hay được dự đoán sẽ lớn hơn cung… Lý thuyết Tiền tệ bất kỳ đáng giá theo danh nghĩa phải đủ khả năng chứng minh bằng cách nào và tại sao nhu cầu tiền tệ hay tiền bạc để mua hàng hóa
Học trò xuất sắc của Wicksell, giáo sư Carl Uhr kết luận rằng Wicksell có lẽ không hề chịu ảnh hưởng trực tiếp của Thornton nhưng ông đã nghiên cứu tranh luận chi tiết về tiền tệ giữa Tooke và Ricardo và rất có thể chịu ảnh hưởng tư tưởng của Thornton thông qua Ricardo (The Economic Doctrines of Knut Wicksell, trang 200).
Như vậy, Wicksell thực hiện sự quá độ từ tiếp cận cân bằng từng phần của Marshall (nghĩa là cung bằng cầu đối với một sản phẩm đơn nhất) sang khuôn khổ tổng cung tổng cầu do Keynes áp dụng sau này. Ngoài ra, Wicksell chấp nhận thử thách mà ông gán cho câu sau cùng: ông chứng minh nhu cầu tiền tệ vượt quá hay thiếu hụt tổng cung qua ảnh hưởng của sự thay đổi trong tiền tệ trên số dư tiền mặt.
4. Số dư thực tế
“Chúng ta hãy cho rằng vì một số lý do này hay lý do khác… lượng tiền dự trữ giảm dần trong khi trong nhất thời giá giữ nguyên không đổi. Số dư tiền mặt dần dần xuất hiện quá ít đối với mức giá cả mới… (Trong trường hợp này đúng ra tôi phải dựa vào mức thu nhập cao hơn trong tương lai. Nhưng đồng thời tôi phải liều vì không thể đáp ứng nhiệm vụ của mình đúng giờ, và trong điều kiện tốt nhất tôi dễ bị ép buộc bằng sự thiếu hụt tiền mặt không mua được một số hàng hóa mà lẽ ra có lẽ sinh lời). Vì thế tôi tìm cách tăng số dư của mình. Điều này chỉ có thể thực hiện – không xét đến khả năng mượn trong hiện tại, v.v… – thông qua sự cắt giảm nhu cầu của tôi về hàng hóa và dịch vụ, hay thông qua sự gia tăng hàng hóa cung cấp cho chính mình., hay thông qua cả hai. Tất cả những người sở hữu và người tiêu dùng hàng hóa khác cũng thế. Nhưng thực ra không ai thành công trong việc nhận ra phải nhắm đến mục tiêu nào – để tăng thêm số dư tiền mặt, vì số lượng số dư tiền mặt của cá nhân bị giới hạn bằng số lượng lượng tiền dự trữ có sẵn, hay đúng ra đồng nhất với nó. Mặt khác, sự cắt giảm nhu cầu phổ biến và gia tăng hàng hóa cung cấp nhất thiết sẽ mang lại sự giảm liên tục ở mọi giá. Hiện tượng này chỉ ngừng khi giá giảm xuống mức ở đó số dư tiền mặt được xem là thích hợp”. (Interest and Prices, trang 39-40).
Đoạn văn sau mô tả hiểu biết của Wicksell về hiệu ứng số dư thực tế.
Như thế Wicksell chứng minh hiệu ứng số dư thực tế nhằm cân bằng cơ học đảm bảo ổn định khi nổ ra xáo trộn tiền tệ. Do đó ông bổ khuyết những gì mà Don Patinkin gọi là “chương thiếu” trong lý thuyết Tiền tệ Tân Cổ Điển.
Bằng cách nhấn mạnh mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư trong phân tích tổng cung tổng cầu, Wicksell cũng cứu nguy lãi suất (như biến số tiền tệ) khỏi bị lãng quên sau thời Thornton. Wicksell không chấp nhận lãi suất như một hiện tượng tiền tệ thuần túy, nhưng ông sử dụng chính đề hai lãi suất để tổng hợp lý thuyết phi tiền tệ của lãi suất. Ngoài ra, ông còn phân nhánh giữa lãi suất tự nhiên và lãi suất thực tế yếu tố chính trong phân tích động lực học của ông.
5. Quá trình tích lũy
Giới lý thuyết gia Tiền tệ Tân cổ Điển phê bình việc chấp nhận kết luận máy móc, tương đối tĩnh (nghĩa là 2M = 2P) của lý thuyết số lượng Hume-Mill-Fisher. Mặc dù nhiều lý thuyết gia tiền tệ Tân cổ Điển có vẻ hiểu ra hiệu ứng số dư thực tế, nhưng theo lời giáo sư Patinkin:
“Họ thường không đưa ra một phân tích động lực học có hệ thống theo phương pháp trong đó sự gia tăng tiền tệ tạo ra hiệu ứng số dư thực tế trong thị trường hàng hóa thúc đẩy nền kinh tế từ vị trí cân bằng nguyên thủy của chúng đến một vị trí cân bằng mới” (Money, Interest and Prices, trang 167). Wicksell là ngoại lệ. Phân tích động học của ông, tập trung vào lãi suất làm điểm xuất phát, hình thành điều ông gọi là “quá trình tích lũy”.
Điều quan trọng trước tiên cần lưu ý trong quá trình động lực học của Wicksell là sự khác nhau ngắn hạn giữa tổng cung tổng cầu được để lộ bằng những thay đổi giữa lãi suất danh nghĩa và thực tế. Vì thế, ông hình thành sự tương quan giữa thị trường tiền tệ và sản phẩm thật minh bạch. Quá trình tích lũy minh họa trong đoạn văn sau:
“Nếu ngân hàng cho vay tiền ở lãi suất chủ yếu thấp hơn lãi suất danh nghĩa như định nghĩa trên [chẳng hạn trong Thornton, xem Hình 6-1], thì khi ấy thứ nhất tiết kiệm sẽ chán nản và vì lý do ấy sẽ có nhu cầu hàng hóa và dịch vụ gia tăng đối với tiêu dùng hiện tại. Thứ hai, khả năng lợi nhuận của các doanh nghiệp vì thế sẽ gia tăng và nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cũng như nguyên liệu thô có sẵn trong thị trường để sản xuất trong tương lai rõ ràng sẽ tăng đến cùng mức độ như trước khi bị lãi suất cao hơn kiểm soát. Vì thế do thu nhập tăng đang đổ dồn về công nhân, chủ đất và chủ nguyên liệu thô, v. v…, giá hàng tiêu dùng sẽ bắt đầu tăng. Điều quan trọng hơn nữa là khi tăng giá, cho dù lúc đầu nhiều hay ít, không hề ngưng chừng nào mà nguyên nhân làm tăng giá vẫn còn tiếp tục hoạt động, nói cách khác, chừng nào mà lãi suất cho vay vẫn còn dưới mức lãi suất danh nghĩa”. (Lectures, II, trang 195-196).
Wicksell cũng ngụ ý vai trò của dự đoán trong phân tích tổng hợp khi ông chỉ rõ ảnh hưởng của quá trình tích lũy có thể không thể thay đổi. Ông cho rằng nhà doanh nghiệp có khả năng trả lương và giá mua nguyên liệu thô cao hơn khi lãi suất cho vay thấp hơn hối suất tự nhiên sẽ:
“Thậm chí khi lãi suất ngân hàng trở lại hối suất tự nhiên bình thường, bình quân có khả năng đưa ra giá cao tương tự, vì họ có lý do dự đoán cùng mức giá tăng cao như nhau đối với sản phẩm của riêng mình trong tương lai” (Lec-Ỉ tures, II, trang 196).
Vì thế, nếu ngân hàng duy trì lãi suất thấp giả tạo, đơn thuần họ chỉ lôi kéo nhà doanh nghiệp trả lao động và nguyên liệu thô ở mức giá cao, vì thế cũng là giá của hàng thành phẩm.
Thế nhưng, cho dù cách tân, nhưng phân tích tiền tệ của Wicksell về nguồn gốc không xuất phát từ phân tích của các nhà kinh tế học cổ Điển. Thực ra, ông phát triển để bênh vực lý thuyết số lượng chống lại những ý kiến chỉ trích, ông làm điều này vì biến thể dài hạn của lý thuyết ấy. Nhưng ông cũng hoàn thiện quá trình điều chỉnh tốt hơn bất kỳ ai khác trước đó. Ông cũng cho lãi suất và tổng cầu một vai trò nổi bật trong giải thích những điều chỉnh tổng hợp trước sự thay đổi về tiền tệ.
LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)