1. Luật Dầu khí là gì?

Luật Dầu khí là đạo luật quy định về việc bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX, kì họp thứ 3 thông qua ngày 06.7.1993, có hiệu lực ngày 01.9.1993.

2. Mục tiêu của việc ban hành Luật dầu khí

Là nhằm bảo vệ, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, nhằm phát triển kinh tế quốc dân, khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ, tiến hành các hoạt động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam.

3. Phạm vì điều chỉnh của Luật dầu khí

Là các quan hệ về hoạt động dầu khí, hợp đồng dầu khí, quyền và nghĩa vụ của nhà thầu, phí, quản lí nhà nước về hoạt động dầu khí và những vấn đề khác có liên quan đến hoạt động dầu khí.

4. Đối tượng áp dụng

Là toàn bộ tài nguyên dầu khí trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lí.

5. Nội dung của Luật Dầu khí

Về bố cục, Luật dầu khí năm 1993 gồm lời nói đầu, 9 chương, 51 điều có những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; hoạt động dầu khí, hợp đồng dầu khí; quyền và nghĩa vụ của nhà thầu; thuế và lệ phí; quản lí nhà nước về hoạt động dầu khí, thanh tra các hoạt động dầu khí; xử lí vi phạm; điều khoản thi hành.

Theo tỉnh thần của Điều 17 Hiến pháp năm 1992: mọi tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm lục địa… là của Nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân. Như vậy, toàn bộ tài nguyên dầu khí trong lòng đất, thuộc đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước Việt Nam thống nhất quản lí; là một dạng tài nguyên đặc biệt, có thể đưa lại những nguồn lợi to lớn cho đất nước. Để quản lí, khai thắc và biến nó thành những giá trị hàng hoá và tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi phải có những quy định pháp luật cụ thể, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực dầu khí, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ để tiến hành các hoạt động dầu khí trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.

Luật dầu khí là văn bản pháp luật đầu tiên ở Việt Nam quy định có hệ thống về tổ chức và hoạt động dầu khí. Đây là đạo luật đóng vai trò là cơ sở pháp lí quan trọng để xây dựng các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí, phát triển mỏ dầu khí, khai thác dầu khí, kể cả xử lí, thu gom; tàng trữ, vận chuyển dầu khí trong khu vực khai thác cho tới điểm giao nhận và định đoạt dầu khí áp dụng đối với các chủ thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp được thành lập theo Luật công ti, doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Luật Dầu khí được sửa đổi bổ sung vào năm 2000 và năm 2008

6. Kiến nghị sửa đổi Luật Dầu khí để phù hợp với tình hình mới

Đây là ý kiến chung của nhiều đại biểu tham dự tọa đàm “Ngành dầu khí trong tầm nhìn mới về chiến lược biển” ngày 28/10 tại Hà Nội.

Nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Văn Phúc cho biết, ngành dầu khí có vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng, bảo đảm cân đối vĩ mô, bảo đảm an ninh quốc phòng trên biển và đối ngoại. Ngành dầu khí cũng có vai trò tạo ra tác động lan toả đối với các ngành dịch vụ, công nghiệp hỗ trợ, trong tạo việc làm cho người lao động cả nước cũng như đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước và các địa phương. Đặc biệt, ngành dầu khí là bộ phận rất quan trọng của kinh tế biển nói chung và Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam.

Tuy nhiên, trong bối cảnh có nhiều thay đổi, hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành dầu khí là Luật Dầu khí đã không còn phù hợp để ngành dầu khí phát triển mạnh mẽ và đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế.

Theo ông Phúc, mặc dù được sửa đổi vào năm 2000 và 2008 nhưng cho đến nay Luật Dầu khí vẫn chỉ giới hạn ở hoạt động dầu khí thượng nguồn là thăm dò khai thác mà chưa để cập đến hoạt động dầu khí ở khâu trung nguồn và hạ nguồn. Vì vậy, việc thu hút đầu tư vào chuỗi giá trị dầu khí từ khâu thượng nguồn đến hạ nguồn gặp nhiều khó khăn.

Cùng quan điểm này, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) Trần Kim Chung chỉ rõ: Ngành dầu khí một trong các ngành trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam. Vì vậy, Chiến lược này sẽ được thực hiện thành công nếu có hệ thống thể chế pháp lý phù hợp, cùng với chiến lược tài chính và ngân sách đặc thù cho các ngành trọng điểm liên quan thực hiện mục tiêu nhiệm vụ, trong đó có ngành dầu khí.

Theo đó, bên cạnh việc sửa Luật Dầu khí, cơ chế tài chính ngân sách cho phát triển ngành dầu khí phải được tính toán ngay cho tầm nhìn trung hạn và dài hạn thay vì chỉ trong ngắn hạn như hiện nay.

Cũng theo ông Chung, ở giai đoạn trước đây khi giá dầu cao, sản lượng khai thác lớn, đúng ra Chính phủ phải có giải pháp tạo quỹ dự trữ từ nguồn giá trị gia tăng dầu khí vượt trội cho đầu tư phát triển ngành dầu khí, giải quyết các vấn đề trọng tâm phát sinh khi giá dầu xuống thấp như giai đoạn vừa qua. Vì vậy, đây là vấn đề mà Chính phủ cần xem xét trong thời gian tới để ngành dầu khí có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế biển.

Bổ sung ý kiến về tạo cơ chế tài chính cho ngành dầu khí, Tiến sỹ Nghiêm Vũ Khải của đoàn đại biểu Quốc hội Hải phòng, đồng thời là Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam chỉ rõ: Có những giai đoạn như 2006-2008, ngành dầu khí đã đóng góp cho ngân sách tới 24-15% nhưng nguồn tiền mà ngành dầu khí đóng góp được sử dụng vào nhiều việc khác, chưa quay trở lại đầu tư thích đáng cho ngành dầu khí.

Vì vậy, để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Công Thương cần có đầu tư thích đáng cho ngành dầu khí; trong đó phải hình thành quỹ công nghệ để phát triển công nghiệp dầu khí và phát triển kinh tế biển, ông Khải nhấn mạnh.

Tại tọa đàm này, Thành viên Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) Phạm Xuân Cảnh cho biết, cùng với Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 23/7/2015 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn 2035”, Nghị quyết trung ương 8 khóa XII ngày 21/10/2018 vừa qua về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW) chính là cơ hội, là định hướng, là động lực quan trọng quyết định sự phát triển của PVN trong thời gian tới.

Tuy nhiên để ngành dầu khí thực hiện thành công các Chiến lược quan trọng này, Chính phủ, Quốc hội cần sớm hoàn thiện thể chế phát triển ngành dầu khí theo đúng tinh thần Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị; trong đó có nội dung sửa đổi Luật Dầu khí, xác lập lại vấn đề quản lý nhà nước với ngành dầu khí và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc sớm xác định cơ chế chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước vào hoạt động dầu khí là rất cần thiết. Đặc biệt, việc sớm giải quyết nguồn lực và cơ chế tài chính tài chính cho hoạt động cốt lõi tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí là rất cấp bách.

Đây là cơ chế tài chính không phải cho PVN mà là cho chính hoạt động dầu khí chung, nhất là khi trong Chiến lược phát triển Kinh tế biển đã đặt ra một loạt các nhiệm vụ với ngành dầu khí như “gắn việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên, khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là các khoáng sản có trữ lượng lớn, giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược”, ông Cảnh nhấn mạnh.

Ghi nhận những đề xuất của các đại biểu, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Đức Kiên khẳng định, hiện bối cảnh kinh tế xã hội đã có nhều thay đổi đòi hỏi các cơ quan quản lý và ngành dầu khí phải có cách nhìn mới về vấn đề tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, về ứng dụng khoa học công nghệ cũng như phương thức đi tắt đón đầu của ngành dầu khí trong tương lai

Theo ông Kiên, sắp tới Luật Dầu khí sẽ phải sửa đổi như trong báo cáo thẩm tra kinh tế – xã hội 2018-2019. Hiện Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội cũng đã trao đổi với Chính phủ về kế hoạch sửa Luật Dầu khí trong năm 2019-2020 cho phù hợp với tình hình.

Các vấn đề, nguyên tắc chính trong việc xây dựng Luật Dầu khí (sửa đổi)
Điều chỉnh, bổ sung các quy định về Hợp đồng dầu khí theo hướng thời hạn hợp đồng cần linh hoạt hơn, có chính sách ưu tiên gia hạn cho Người điều hành hiện tại; cho phép giữ lại phát hiện nhỏ không có giá trị phát triển ở hiện tại, tuy nhiên có thể có tiềm năng ở những kế hoạch khác (hợp tác phát triển chung, công nghệ mới…);
Bổ sung các quy định để mở rộng phạm vi đầu tư của dự án dầu khí thượng nguồn cho cả một số hạng mục trên bờ (trước đây thuộc dự án trung nguồn và hạ nguồn) để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc đầu tư vào chuỗi giá trị khí của ngành dầu khí, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí;
Bổ sung khung pháp lý phù hợp cho việc tiếp nhận tài sản sau khi Nhà thầu hoạt động khai thác chuyển giao cho nước chủ nhà vào thời điểm kết thúc hợp đồng dầu khí để có thể khai thác tận thu tối đa nguồn tài nguyên trong thời gian còn lại (khoảng từ 3 đến 5 năm) hoặc tiếp tục đầu tư tận thăm dò, gia tăng sản lượng khai thác.
Bổ sung quy định về dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư dầu khí cùng các định hướng về các chính sách thuế phù hợp (thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,…).
Bổ sung quy định cụ thể về quy trình về thủ tục đầu tư dự án dầu khí thượng nguồn, bảo đảm đồng bộ với pháp luật đầu tư và quản lý vốn nhà nước. Cụ thể:
– Đối với các Nhà thầu nước ngoài: Làm rõ các trình tự, thủ tục đầu tư đối với các bước trong hoạt động dầu khí; có các quy định cụ thể hơn về việc ưu tiên áp dụng pháp luật dầu khí (Luật chuyên ngành) trong việc thực hiện các thủ tục đầu tư dự án dầu khí;
– Đối với các doanh nghiệp nhà nước (PVN, PVEP,…): Xác định hình thức đầu tư các dự án dầu khí trong nước (là đầu tư dự án thông thường hay đầu tư ra ngoài doanh nghiệp để có cơ chế xử lý rõ ràng); bổ sung quy định về thủ tục/quy trình nhượng bán/quyền lợi tham gia của PVN/PVEP phù hợp với đặc thù hoạt động dầu khí…
Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)