1. Nguyên tắc xử lý đổi với người dưới 18 tuổi

Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 thì cụ thể như sau:
“Điều 91. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
1. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Lưu ý khi xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi?
>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự, gọi: 1900.0191
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.:
Như vậy, có nghĩa là, theo tinh thần của nguyên tắc này, lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi được đặt lên hàng đầu khi người áp dụng pháp luật cân nhắc và quyết định biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này có ý nghĩa là khi xử lý người dưới 18 phạm tội, người áp dụng pháp luật không được vì các mục tiêu khác (kể cả mục tiêu bảo vệ trật tự, an toàn xã hội) mà lựa chọn hướng xử lý không đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18.
– Điều luật này cũng tiếp tục quy định việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Với nguyên tắc này, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải đặt trọng tâm vào việc giáo dục để người dưới 18 tuổi nhận ra được sai lầm của mình, giúp đỡ để họ sửa chữa sai lầm đó và tạo cho họ những cơ hội cần thiết để họ cso thể phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội. Các nguyên tắc xử lý này được thể hiện xuyên suốt trong quá trình xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, từ việc lựa chọn hình thức, biện pháp xử lý đến cách thức áp dụng hình thức, biện pháp xử lý đó.
Điều luật này cũng quy định rõ việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi họ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Chỉ khi xem xét tất cả những yếu tố về khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của người dưới 18 tuổi và nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm, người áp dụng pháp luật mới đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp đối với trường hợp cụ thể đó.
– Điều luật này quy định cụ thể các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp này trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Để có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này, điều kiện bắt buộc thứ nhất là tội mà người dưới 18 tuổi thực hiện phải thuộc một trong các trường hợp được liệt kê sau đây:
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm);…
Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Cùng với điều kiện về tội đã thực hiện hoặc vai trò trong vụ án đồng phạm nêu trên, điều kiện thứ hai để người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này là người đó có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, có thể là tình tiết thuộc khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017) và tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả của tội phạm mà không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 sủa đổi 2017 về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự nói chung. Người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này được áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục là triển khai, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
–  Điều luật này khẳng định nguyên tắc việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Quy định này nhằm hạn chế việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp không thực sự cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ cần áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với họ.
– Khoản 4 Điều luật này tiếp tục khẳng định yêu cầu cân nhắc khả năng miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục nêu trên hoặc biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng khi xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội và chỉ áp dụng hình phạt đối với họ khi việc áp dụng các biện pháp trên không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Quy định này cũng nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt khi không cần thiết ngay cả khi người dưới 18 tuổi phạm tội bị đưa ra xét xử.
– Với những đặc điểm đặc thù về tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi và chính sách hình sự của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Điều luật này khẳng định rõ nguyên tắc không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Quy định này phù hợp với nguyên tắc việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
– Trong số các biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tù có thời hạn là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất. Loại hình phạt này được quy định áp dụng với tính cách là lựa chọn cuối cùng của Tòa án khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .
Khi xử phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi, Tòa án áp dụng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Nói cách khác, trong trường hợp cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì mức án tù được Tòa án áp dụng không chỉ thấp hơn so với mức án tù áp dụng đối với người đủ 18 tuổi phạm tội tương ứng mà còn phải là mức ngắn nhất thích hợp đối với trường hợp phạm tội đó.Điều luật này cũng tiếp tục khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
– Chính sách hình sự của Nhà nước đối với người dưới 16 tuổi phạm tội được thể hiện trong quy định không sử dụng việc kết án đối với người dưới 16 tuổi phạm tội để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

2. Một số lưu ý về việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi

thuộc thẩm quyền của tòa gia đình và người chưa thành niên
Theo quy định tại thông tư 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì:

2.1 Xét xử vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại là người dưới 18 tuổi

Khi xét xử vụ án hình sự quy định tại Điều 5 của Thông tư này, Tòa án phải thực hiện các quy định sau đây:
Phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về phòng xử án;
Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng);
Việc tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa thực hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế tổ chức phiên tòa;
Đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai theo quy định tại Điều 327 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không xét xử lưu động đối với vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi….

2.2 Việc tham gia phiên tòa của người đại diện, nhà trường, cơ quan, tổ chức

Những người sau đây phải có mặt tại phiên tòa theo quyết định của Tòa án:Người đại diện của người dưới 18 tuổi;Đại diện nhà trường nơi người dưới 18 tuổi học tập;Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18 tuổi lao động, sinh hoạt.
Trường hợp những người được quy định tại khoản 1 Điều này vắng mặt lần thứ nhất hoặc vắng mặt lần thứ hai vì lý do bất khả kháng, do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.
Trường hợp những người quy định tại khoản 1 Điều này vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan nhưng để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể hoãn phiên tòa.

2.3 Việc tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi

Người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ, người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ có quyền nhờ những người sau đây bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi:Luật sư;Trợ giúp viên pháp lý;Bào chữa viên nhân dân;Người khác.
Tòa án phải thông báo cho người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ, người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ về quyền nhờ những người quy định tại khoản 1 Điều này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi. Trường hợp họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại nhưng có văn bản đề nghị thì Tòa án yêu cầu Đoàn Luật sư của LVN Group phân công tổ chức hành nghề Luật sư của LVN Group cử Luật sư của LVN Group hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư của LVN Group hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.4 Việc tiếp xúc giữa người bị hại là người dưới 18 tuổi với bị cáo

Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải cách ly người bị hại là người dưới 18 tuổi với bị cáo trong những trường hợp sau đây: Những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán;Những vụ án có người bị hại là người dưới 10 tuổi;Những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi hoặc người đại diện của họ và Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly để bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
Trong quá trình xét xử những vụ án quy định…, người bị hại tham gia phiên tòa ở phòng cách ly. Thông tin về diễn biến phiên tòa cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ được truyền qua hệ thống truyền hình trực tuyến có âm thanh hoặc được thực hiện bằng phương thức khác nhưng phải bảo đảm cho họ theo dõi đầy đủ diễn biến phiên tòa và thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình.Người đại diện, người giám hộ, chuyên gia hoặc cán bộ tâm lý – xã hội, người làm công tác bảo vệ trẻ em phải có mặt ở phòng cách ly để hỗ trợ người bị hại tham gia phiên tòa.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group