Tôi và chồng tôi kết hôn được 5 năm nhưng không có con do tôi bị dị tật ở tử cung. Chúng tôi đã đi khám cho thấy trứng và tinh trùng có khả năng thụ thai nhưng khi thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì không thành công. Vợ chồng chúng tôi đã nhờ em H là em họ của chồng tôi, H đã có chồng là K và đã có hai con chung. Anh K bị bệnh tâm thần hoang tưởng nhưng vẫn có khả năng nhận thức. Việc chị H mang thai hộ được anh K và chị H đồng ý.Như vậy, chúng tôi có đủ điều kiện để được thực hiện việc mang thai hộ hay không?Trong trường hợp anh K bị bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức thì chị H có đại diện cho anh K đưa ra quyết định được không?

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật LVN Group. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

2. Luật sư tư vấn:

2.1. Điều kiện để được mang thai hộ và nhờ mang thai hộ

Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình quy địnhMang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”

Điều 95 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.

2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

b) Vợ chồng đang không có con chung;

c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;

b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;

đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”

Điều kiện người nhờ mang thai hộ cần đáp ứng

– Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

– Vợ chồng đang không có con chung;

Theo như thông tin bạn cung cấp, vợ chồng bạn thỏa mãn các điều kiện pháp luật quy định.

Thứ hai, điều kiện người được nhờ mang thai hộ

– Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;

– Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

– Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;

– Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;

– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

Theo quy định tại khoản 17, 19 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình, thì:

Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.

Những người cùng dòng máuvtrực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.

Theo đó, chị H là em họ của của chồng bạn đảm bảo điều kiện người thân thích cùng hàng bên chồng. Chị H đã kết hôn và có hai con chung với chồng đảm bảo quy định về nhân thân người được nhờ mang thai hộ.Có sự đồng ý của chồng là anh K (tuy mắc chứng thần kinh hoang tưởng nhưng vẫn có khả năng nhận thức). Như vậy, chị H đáp ứng điều kiện của người được nhờ mang thai hộ theo quy định của pháp luật

Pháp luật cũng quy định rõ, việc nhờ mang thai hộ hoàn toàn tự nguyện, không vì mục đích thương mại và phải được lập thành văn bản, và việc người chồng của người được nhờ mang thai hộ đồng ý cũng phải được lập thành văn bản. Do đó, để tranh những rủi ro, dù là anh em họ việc mang thai hộ các bạn phải lưu ý các quy định của pháp luật về hình thức giao dịch này để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên.

2.2. Chồng người mang thai hộ mất nhận thức thì người vợ có thể tự quyết định việc mang thai hộ không?

Pháp luật quy định trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng.

Như vậy, đây là quyền nhân thân của anh K do đó chị H không được quyền đại diện trong phạm vi này. Đồng thời, có thể hiểu rằng pháp luật quy định như vậy là trong trường hợp người chồng có khả năng nhận thức, còn trong trường hợp chồng mất khả năng nhận thức thì sự đồng ý của anh K là không cần xét tới.

Tuy nhiên, pháp luật trong trường hợp này vẫn chưa có quy định cụ thể, tư vấn của chúng tôi dựa trên quan điểm cá nhân. Và để đảm bảo quyền lợi của các bên trong quan hệ mang thai hộ các bên cần xác lập văn bản thể hiện rõ mọi nội dung tránh tranh chấp hoặc vi phạm pháp luật.

2.3. Mang thai hộ thai nhi có nguy cơ mắc bệnh Đao ai có quyền quyết định tiếp tục hay bỏ mang thai?

Vợ chồng anh H là anh họ của tôi đã nhờ tôi mang thai hộ vì cả hai vợ và chồng anh H đều không có khả năng thụ thai. Tôi đủ điều kiện để mang thai hộ theo quy định của pháp luật theo sự tư vấn của bác sỹ. Đến nay, tôi đã mang thai tháng thứ 5, khi đi kiểm tra thai kỳ bác sỹ nói em bé phát triển không bình thường, khi sinh ra có thể sẽ bị bệnh đao. Khi biết kết quả đó, vợ chồng anh H quyết định bỏ đứa bé, nhưng tôi không đồng ý.

Vậy, xin Luật sư của LVN Group cho tôi biết tôi có được quyền quyết định trong trường hợp này không? Và nếu đứa bé sinh ra mắc bệnh đao thật vợ chồng anh H có nghĩa vụ nuôi bé không?

Trong trường hợp vợ chồng anh H đã nhất quyết bỏ đứa bé, nhưng khi sinh ra đứa trẻ bình thường thì vợ chồng anh H có được nhận con không?

Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo như sau:

“1. Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.

2. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.

3. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

4. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

5. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.”

Theo đó, tại Khoản 4 Điều 97 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định trong trường hợp vì sự phát triển của thai nhi người mang thai hộ có quyền quyết định về việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Như vậy, trong trường hợp đến tháng thứ 5 của thai kỳ, bác sỹ có xác định em bé sinh ra có thể bị bệnh đao thì bạn (người được nhờ mang thai hộ) là người có quyền quyết định có hay không tiếp tục mang thai.

Các biện pháp sàng lọc dị tật thai nhi ngày một hiện đại hơn và chính xác hơn. Theo như thông tin bạn cung cấp bác sĩ đưa ra kết luận là có thể bé có nguy cơ bị đao chứ hoàn toàn chưa phải là khẳng định chắc chắn. Bởi vậy, để có thể đưa ra quyết định đúng đắn và đảm bảo quyền lợi cho các bên trong quan hệ mang thai hộ, bạn cần thỏa thuận với bên nhờ mang thai hộ tiến hành thực hiện kiểm tra xét nghiệm chuyên sâu để có kết luận chính xác từ bác sỹ về khả năng dị tật ở thai nhi (có thể tham khảo phương pháp chọc ối để xét nghiệm nhiễm sắc thể). Sau khi có kết luận chính xác về khả năng dị tật ở thai nhi khi đó bạn đưa ra quyết định sẽ là hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho chính bạn.

Pháp luật hiện hành chưa có quy định về trách nhiệm của các bên trong trường hợp thai nhi có vấn đề mà các bên mâu thuẫn về lựa chọn tiếp tục hay dừng việc mang thai. Do đó, còn tùy thuộc vào thỏa thuận giữa bạn và vợ chồng anh H về việc nếu bạn quyết định giữ mà sinh đứa trẻ ra nó bị bệnh đao thì trách nhiệm của các bên như thế nào? Nếu vợ chồng anh H quyết định không tiếp tục mang thai mà bạn lại quyết định tiếp tục thì về nguyên tắc bạn sẽ là người chịu trách nhiệm với quyết định của mình và khi đứa trẻ được sinh ra bạn sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng…

Trong trường hợp vợ chồng anh H đã quyết định không tiếp tục cho bạn mang thai nhưng khi đứa trẻ được sinh ra không hề mắc bệnh đao thì việc vợ chồng anh H có được nhận con hay không phụ thuộc vào quyết định của bạn có giao đứa bé cho họ hay không. Bởi lẽ pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này, do đó phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên nhưng phải trên cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các bên cũng như cho chính đứa trẻ.

Qua trường hợp của bạn để thấy được rằng quy định pháp luật hiện hành về mang thai hộ vẫn còn những vướng mắc, bất cập. Đây là cơ sở kiến nghị nhà làm luật nghiên cứu bổ sung quy định trong thời gian tới để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sịnh một cách triệt để và hiệu quả hơn.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Hôn nhân – Công ty luật LVN Group