1. Định nghĩa mớm cung

Mớm cung là việc dùng thủ đoạn gợi hỏi để lấy lời khai theo ý mong muốn của người hỏi cung. Mớm cung được hiểu là: Điều tra viên nhắc các lời khai cho người bị hại, bị can, người làm chứng… những nội dung mà điều tra viên cho là cần thiết. Những nội dung này không có thật và có thể làm sai lệch kết quả điều tra, khiến sự thật vụ án không được làm sáng tỏ. Ví dụ: Có một vụ tai nạn giao thông xảy ra. Điều tra viên nghi ngờ và muốn buộc tội cho một người nào đó. Người chứng kiến vụ tai nạn chỉ nhớ được là người gây tai nạn tầm trung tuổi, đi xe máy màu đen. Điều tra viên nhắc cho người chứng kiến các nội dung: Biển số xe, xe loại gì, người gây tai nạn ăn mặc thế nào… Người chứng kiến khai những nội dung đó và điều tra viên ghi lại trong biên bản lấy lời khai. Người bị nghi ngờ gây tai nạn có thể dễ dàng bị buộc tội. Như vậy có thể coi là mớm cung.

Nội dung câu hỏi mớm cung thường chứa đựng sẵn câu trả lời của người hỏi để người bị hỏi trả lời theo ý đó. Hình thức mớm cung rất đa dạng, có thể người hỏi gợi ý cho người nghe bằng lời, có thể cho xem tài liệu, vật chứng chưa được xác định là chính xác để họ trả lời theo như gợi ý. Việc mớm cung làm cho lời khai không chính xác, không phản ánh đúng sự thật khách quan. Do vậy, pháp luật tố tụng hình sự cấm dùng thủ đoạn mớm cung khi hỏi cung bị can, lấy lời khai của người tham gia tố tụng khác cũng như khi xét hỏi tại phiên toà.

2. Chủ thể thực hiện hành vi mớm cung

Chủ thể của hành vi mớm cung là người: có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Họ có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán.

3. Đối tượng của hành vi bức cung

Đối tượng của hành vi này có thể. là bị can, bị cáo, người bị hại hoặc người làm chứng.

Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự

Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử

Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

4. Quy định của pháp luật về hành vi mớm cung

Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm việc dùng nhục hình, nếu xảy ra việc mớm cung, dụ cung, ép cung, những hành vi này, tuỳ theo mức độ vi phạm, nhẹ là kỷ luật, nặng thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có các điều (Điều 298: Tội dùng nhục hình; Điều 299: Tội bức cung) để xử lý những người tiến hành tố tụng vượt quá giới hạn pháp luật cho phép trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mặc dù không quy định rõ ràng Tội mớm cung, nhưng mớm cung là một hành vi bị cấm theo tinh thần của pháp luật hiện hành. Việc hỏi theo kiểu “ép cung” hiện nay khó có thể xảy ra tại phiên tòa nhưng “mớm cung” thì rất dễ xảy ra và tinh thần pháp luật là cấm chuyện này. Thậm chí luật còn cấm việc công bố các bản cung về lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra nếu không có sự mâu thuẫn với lời khai tại tòa để tránh tạo áp lực cho bị cáo.

5. Khi bị mớm cung, bị can, bị cáo nên làm gì ?

Vậy, khi bị mớm cung, bị can, bị cáo nên làm gì? Điều 15, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về xác định sự thật vụ án, theo đó: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
1.Nên yêu cầu có Luật sư của LVN Group trong các buổi làm việc với điều tra viên. Việc Luật sư có mặt để tham gia lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự bởi nó không những làm cho người bị tạm giữ, bị can yên tâm về mặt tinh thần và luôn có niềm tin rằng mình sẽ không bao giờ bị oan hoặc phải chịu mức án nặng hơn so với mức độ và hành vi phạm tội của mình mà sự có mặt của Luật sư trong những hoạt động này còn khiến Điều tra viên cẩn trọng, khách quan, chính xác hơn trong khi thực hiện công việc.

Để bảo vệ cho mình thì bị can, bị cáo có quyền bào chữa hoặc nhờ Luật sư của LVN Group bào chữa theo Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:

Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.

Do đó những bản cung có sự tham gia của người bào chữa, như Luật sư của LVN Group, kiểm sát viên cho bị can trong giai đoạn điều tra sẽ khắc phục được tình trạng này và đảm bảo sự vô tư khách quan trong quá trình điều tra.Vì vậy cần mời Luật sư của LVN Group bào chữa cho mình.Do Luật sư của LVN Group có quyền tham gia hỏi cung bị can trong quá trình điều tra vụ án của cơ quan điều tra nên việc có mặt Luật sư của LVN Group trong các buổi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can không những giúp cho họ tự tin hơn trong khai báo mà còn ngăn ngừa sự vi phạm từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, tránh tình trạng khi ra toà có sự phản cung, khiếu nại về việc dùng nhục hình, bức cung, mớm cung.

Sự tham gia của Luật sư của LVN Group với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo , bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên.2.Dù sao hãy hỏi điều tra viên về khả năng buổi làm việc được ghi âm, ghi hình.

Theo Khoản 6 Điều 183 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

“Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

3.Đề nghị điều tra viên giải thích mình bị truy tố tội gì và những dấu hiệu bắt buộc chứng minh của tội đó.

4.Suy nghĩ một mô hình ghỡ tội. Khai theo hướng ghỡ tội. Ngay cả khi khai không nhớ thì lời khai vẫn được chấp nhận.

5.Khi kết thúc điều tra, yêu cầu cung cấp phô tô lời khai của mình và của người khác về mình. Đọc và tiếp tục căn chỉnh, củng cố mô hình gỡ tội để trình bày cho kiểm sát viên, tòa.

6.Khi kiểm sát viên phúc cung, hãy khai lại theo hướng mình xác định. Tuyên bố không công nhận những lời khai nào mà mình cho là bị mớm.

8.Nhớ lại điều tra viên đã hỏi cung, nội dung bản cung, ngày lấy nếu có thể, cách điều tra viên mớm… để sẵn sàng trình bày chi tiết ở tòa. Tận dụng thời gian tại tòa để chỉ ra lời khai nào là mớm.

9.Khi ra tòa, yêu cầu triệu tập điều tra viên để sẵn sàng đối chất.

Căn cứ ở Khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về quyền của bị can:

“2. Bị can có quyền:

a) Được biết lý do mình bị khởi tố;

b) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

c) Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

h) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;

k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

Và Khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về quyền của bị cáo:

“Bị cáo có quyền:

a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;

b) Tham gia phiên tòa;

c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;

đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;

k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;

l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;

m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”

Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)