1. Đặt tên doanh nghiệp

Ông H. mở quán bán món Huế. Ông đặt tên quán là “Mi tau”. Hai từ này là từ xưng hô thân mật của người miền Trung, có nghĩa như “mày – tao”, “anh – tôi”. Quán mở được vài hôm thì người của quận đến lập biên bàn, xử phạt 800 ngàn đồng, trong đó có lý do phạt vì đặt tên quán bằng tiếng nước ngoài!
Chủ quán gửi đơn khiếu nại, cho rằng hai từ “Àíí tau” được đặt tách rời nhau, đọc được như tiếng Vĩệt, ai cũng có thể hiểu đó là “mày – tao” theo kiểu tiếng Huế, không thể hiểu lầm là tiếng nước ngoài.
Thậm chí, tiếng Huế còn nhiều từ độc đáo hơn như “mần răng ra ri”, “mô, tê, rứa”,… nhưng đó đều là tiếng Việt.
Quy định không cấm đặt tên bằng ngôn ngữ địa phương. Không lẽ cơ quan quản lý không biết tiếng Huế thì cho là tiếng nước ngoài?
Theo một nguồn tin từ Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh, dù đăng ký dưới dạng doanh nghiệp hay hộ kinh doanh cá thể thì người kinh doanh vẫn phải tuân thủ việc đặt tên bằng tiếng Việt. Nếu chữ“Mi tau” được cấp phép (trong giấy phép kinh doanh) thì không có lý do gì bắt bẻ cái bảng hiệu. Trường hợp từ “Mi tau” không nằm trong giấy phép kinh doanh mà chủ quán treo tên này thì bị phạt vì làm sai giấy phép chứ không thể phạt vì lý do “tiếng nước ngoài”. Tuy nhiên, nếu viết Mitau dính liền nhau, tuy chưa biết nó là tiếng nước nào nhưng chắc chắn không phải là tiếng Việt thì có thể sẽ bị phạt.
Theo nguồn: Báo Pháp luật Thành phổ Hồ Chi Minh ngày 12-9-2007.

2. Đăng ký nhãn hiệu và tên thương mại?

Ngày 21-3-2006, Công ty cổ phần Văn phòng phẩm Hồng Hà đăng ký nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình” tại Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) cho các sản phẩm văn phòng phẩm thuộc nhóm 16 Bảng phân loại quốc tế.
Ngày 13-9-2006, USPTO có Thông báo kết quà xét nghiệm đơn, trong đó kết luận nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình” sẽ bị từ chối bảo hộ với lý do tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “Red River” đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 2096052 ngày 09-9-1997 với các sản phẩm thuộc nhóm 16.
Theo thông báo trên thì USPTO từ chối đăng ký nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình” dựa trên cơ sở học thuyết tiếng nước ngoài tương đương (doctrine of foreign equivalents).
Theo học thuyết này, các từ hoặc thuật ngữ nước ngoài sẽ không được đăng ký là nhãn hiệu tại Hoa Kỳ nếu trước đó có nhãn hiệu với nghĩa tiếng Anh tương đương đã được đăng ký cho sản phẩm và/hoặc dịch vụ liên quan và người tiêu dùng có khả năng dịch tiếng nước ngoài đó ra thành tiếng Anh tương đương. Trong trường hợp này, USPTO cho rằng, “Hồng Hà” được coi là thành phần nổi bật của nhãn hiệu xin đăng ký, tên “Hồng Hà” là từ tiếng việt của “RED RIVER”. “RED RIVER” là nhãn hiệu đã được cấp đăng ký số 2096052 ngày 09-9-1997 của Công ty RED RIVER PAPER, INC (US) cho các sản phẩm trong nhóm 16.
Do vậy, hai nhãn hiệu này tương tự nhau vì cùng có nghĩa là “Hồng Hà” (RED RIVER). USPTO đã đưa ra một số chứng cứ chứng minh về nghĩa của từ này tại các website: www.wikipedia.com,www.answers.com. Và theo tra cứu của USPTO về kết quả điều tra dân số năm 2000 trên toàn Hoa Kỳ, có hơn một triệu dân ở Hoa Kỳ nói tiếng Việt tại nhà và tiếng Việt là một trong mười ngôn ngữ được sử dụng tại gia đình nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Do đó, người tiêu dùng sẽ có thể dịch từ “Hồng Hà” sang tiếng Anh tương đương là “RED RIVER”. Vì vậy, theo học thuyết tiếng nước ngoài tương đương, các nhãn hiệu này bị coi lả tương tự gây nhầm lẫn với nhau. Ngoài ra, USPTO cho rằng nhãn hiệu xin đăng ký mặc dù được kết hợp với phần hình nhưng đối với các nhãn hiệu kết hợp cả phần từ và hình thì phần từ thường được người mua hàng nhớ nhiều hơn và được sử dụng khi gọi tên sản phẩm hoặc dịch vụ. Bởi vậy, phần từ thường có vai trò quan trọng hơn trong việc xem xét, đánh giá khả năng tương tự gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu.
Ngày 13-3-2007, Hồng Hà đã nộp công văn trả lời thông báo từ chối của USPTO cho đon nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình” với các lập luận sau đây:
– Theo các nguyên tắc xét nghiệm nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, khi đánh giá tính tương tự gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu cần phải xem xét, so sánh các nhãn hiệu dựa trên ấn tượng tổng thể từ cách phát ầm, hình thức thể hiện, ngữ nghĩa của nó đến ấn tượng thương mại. Xét trên các phương diện này, nhãn xin đăng ký khác với nhãn hiệu đối chứng nhờ sự kết hợp với phần logo và các thành phần chữ khác.
– Theo học thuyết tiếng nước ngoài tương đương, các tiếng nước ngoài được dịch sang tiếng Anh phải là những ngôn ngữ thông dụng (common language) ở Hoa Kỳ. Yếu tố quan trọng nhất để xác định nghĩa của một tiếng nước ngoài có được biết đến rộng rãi hay không bởi người tiêu dùng Hoa Kỳ (được hiểu phải là người có khả năng am hiểu, thành thạo ngôn ngữ nước ngoài đó) là liệu người tiêu dùng khi nhìn thấy tiếng nước ngoài đó có nghĩ ngay đến nghĩa tiếng Anh tương đương của từ đó không. Trong trường hợp này, theo USPTO, có khoảng 1 triệu người ở Hoa Kỳ nói tiếng Vỉệt ở nhà nhưng nếu so sánh số lượng 1 triệu người này với dân số Hoa Kỳ thì chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 0,33% dân số Hoa Kỳ. Do đó, số lượng người tiêu dùng biết ý nghĩa của từ “Hồng Hà” là “Red River” là không đáng kể.
– Theo thực tiễn xét nghiệm của Hoa Kỳ, thậm chí, nếu nhãn hiệu là từ nước ngoài có nghĩa tương đương trong tiếng Anh với nhãn đã đăng ký thì sự tương tự về ngữ nghĩa này cũng chỉ là một khía cạnh. Sự tương tự về nghĩa này có thể sẽ không còn có ý nghĩa nhiều trong việc đánh giá khả năng tương tự gây nhầm lẫn nếu các nhãn hiệu khác nhau về cách trình bày, cách phát âm hoặc các yếu tố khác. Rõ ràng là nhãn hiệu đối chứng chỉ gồm hai từ “RED” và “RIVER”, trong khi đó nhãn hiệu xin đăng ký bao gồm cả phần từ và phần hình; phần từ thì gồm rất nhiều từ được phát âm khác với nhãn đối chứng.
Sau khi xem xét công văn trả lời, USPTO đã hoàn toàn bị thuyết phục,yà đồng ý rằng nhãn hiệu xin đăng ký “HỒNG HA, hình’’ và nhãn đối chúng “RED RIVER” không tương tự gây nhầm lẫn. Vì vậy USPTO đã rút bỏ ý kiến từ chối đăng ký cho nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình” cho các sản phẩm văn phòng phẩm thuộc nhóm 16. Công ty cổ phần Văn phòng phẩm Hồng Hà được’ chấp nhận đăng ký nhãn hiệu “HỒNG HÀ, hình’’ tại Hoa Kỳ.
Theo nguồn: https://www.lele.com.vn/index.php/vn/tin- tuc/51-lê-lê-thành-cõng-trong-vỉệc-đề-nghị-cơ-quan-sáng- chế-và-nhãn-hiệu-hoa-kỳ-uspto-rút-lại-từ-chổỉ-đăng-ký- nhãn-hỉệu- “hồng-hà, -hình ”

3. Rắc rối như … đặt tên doanh nghiệp?

Hai , một tên là Hùng, một tên là Vương quyết định mở một công ty luật hợp danh. Thường thì công ty luật hợp danh sẽ lấy luôn tên riêng của Luật sư của LVN Group để đặt, nên hai Luật sư của LVN Group quyết định đặt tên công ty là Công ty Luật hợp danh Hùng Vương. Tuy nhiên, đề xuất này đã không được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận vì “đụng” đến tên của vua Hùng, một trong những hình thức đặt tên bị cấm.
Một trường hợp khác, có công ty muốn đặt tên doanh nghiệp là Công ty trách nhiệm hữu hạn Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, cũng vì “đụng” tên danh nhân, cơ quan đăng ký kinh doanh buộc phải từ chối. Quy định “không được lấy tên danh nhân” để đặt tên doanh nghiệp hiện nay, theo nhận định của nhiều vị trưởng phòng đăng ký kinh doanh, là một quy định khó áp dụng. Đơn giản là vì chưa có tiêu chí và danh mục công nhận danh nhân.
Một ví dụ khôi hài khác là trường hợp một doanh nghiệp ở Hà Nội đề xuất đặt tên doanh nghiệp là Công ty trách nhiệm hữu hạn Cung cấp dịch vụ Sung Sướng. Trước yêu cầu này, cơ quan đăng ký kinh doanh Hà Nội khá bối rối vì không biết cái tên này có bị coi là “vi phạm thuần phong mỹ tục” như quy định hay không?
Một cái tên khác cũng từng bị từ chối là Công ty cổ phần Ăn mòn Việt Nam, với ngành, nghê kinh doanh chất… ăn mòn. Tuy nhiên, cán bộ đăng ký kinh doanh khá lúng túng trước cụm từ “ăn mòn Việt Nam” có “nhạy cảm” gì không? Trong khi đó, có nhiều đề xuất đặt tên rất đơn giản cũng không được chấp thuận, như trường hợp một doanh nghiệp muốn đặt tên là Công ty cổ phần Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa. Nghe ra thì cái tên này không có vấn đề gì, nhưng cụm từ “Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa” đã trùng với tên của Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, và điều này cũng bị cấm!
Theo nguồn: http://vneconomy.vn/doanh-nhan/rac-roi-nhu-dat- ten-doanh-nghiep-20130910114548271.htm

4. Góp vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn?

Dương, Thành, Trung và Hải thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình Dương kinh doanh xúc tiến xuất khẩu. Công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với vốn điều lệ 5 tỷ đồng. Trong thỏa thuận góp vốn do các bên ký, Dương cam kết góp 800 triệu đồng bằng tiền mặt (16% vốn điều lệ), Thành góp vốn bằng giấy nhận nợ cùa Công ty Thành Mỹ (dự định sẽ là bạn hàng chủ yếu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình Dương), tổng số tiền trong giấy ghi nhận nợ là 1,3 tỷ đồng; giấy nhận nợ này được các thành viên nhất trí định giả là 1,2 tỷ đồng (24%). Trung góp vốn bằng ngôi nhà của mình, giá trị thực tế vào thời điểm góp vốn chỉ khoảng 700 triệu đồng, song do có quy hoạch mở rộng mặt đường, nhà cùa Trung dự kiến sẽ ra mặt đường, do vậy các bên nhất trí định giá ngôi nhà này là 1,5 tỷ đồng (30%). Hải cam két góp 1,5 tỷ đồng bằng tiền mặt (30%), song mới tạm góp 500 triệu đồng. Các bên thỏa thuận khi nào công ty cần, Hải sẽ góp tiếp 1 tỷ đồng còn lại. Các bên thông qua bản Điều lệ, quy định Thành giữ chức Giám đốc, Hải giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên. Người đại diện theo pháp luật là Giám đốc công ty.
Sau một năm hoạt động, công ty có lãi ròng là 800 triệu đồng, song bốn thành viên không thống nhất được cách phân chia lợi nhuận. Hài khởi kiện ra tòa đòi hưởng 50% số lợi nhuận vì cho rằng phần vốn góp của mình chiếm 50% số vốn thực tế của công ty. Trên thực tế, Dương đã góp 800 triệu đồng bằng tiền mặt; giá trị thực tế của nhà đất mà Trung đã góp khoảng 700 triệu đồng. Theo tính toán của Hải, việc góp vốn bằng giấy ghi nợ của Thành là bất hợp pháp, mặc dù Công ty Thành Mỹ đã thanh toán cho Công ty Thái Bình Dương khoảng 600 triệu đồng trước khi lâm vào tình trạng vỡ nợ.
Theo nguồn: Tổ công tác thỉ hành Luật doanh nghiệp

5. Giám đốc chi nhánh có quyền địa diện không?

Chi nhánh một ngân hàng mở một điểm giao dịch và gửi thông báo đến Cơ quan đăng ký kinh doanh. Kết quả là Cơ quan đăng ký kinh doanh đã từ chối việc mở phòng giao dịch trên với lý do: “Giám đốc Chi nhảnh A kỷ tên thừa ủy quyền của người đại diện theo pháp luật Ngân hàng X trên văn bản thông bảo, nhưng không được đóng dấu của Chỉ nhảnh A mà phải đỏng dấu của Ngân hàng X mới bảo đảm tư cách pháp nhân, mới phù hợp tư cách nhân đanh bên ủy quyền”.
Vẩn đề đật ra:
Thực tế có phải vậy không?
Ai là người có quyền đại diện cho công ty?
Khoa học pháp lý gọi công ty là pháp nhân, một “con người” do pháp luật tạo ra. Nói một cách hình tượng thì công ty là một người vô hình. Công ty không có hình hài cụ thể, không thể nói, không thể hành động được. Mọi hoạt động của công ty được thực hiện thông qua những con người cụ thể. Nhưng sự khác biệt ở chỗ, những người thực hiện công việc của công ty lại làm phát sinh trách nhiệm của công ty. Người ta gọi đó là đại diện (theo ngôn ngữ bình dân là thay mặt). Theo quy ước chung, có những người mà khi nói hoặc làm một điều gì đó thì được coi là công ty nói hoặc làm. Ý niệm này được pháp luật về công ty gọi là “đại diện theo pháp luật”. Điều đó có nghĩa là không cần thêm bất cứ thù tục nào khác, những người này được suy đoán một cách mặc nhiên là người thay mặt hay đại diện chò công ty. Tùy theo mô hình công ty mà người đại diện theo pháp luật cỏ sự khác nhau. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn thì người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc. Trong công ty cổ phần là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc. Lựa chọn người nào làm người đại diện theo pháp luật là tùy thuộc vào quyết định của công ty và công ty phải thể hiện điều đó một cách minh thị trong Điều lệ của công ty.
Chi nhánh và chức năng của chi nhánh
Nói một cách đơn giản, công ty như một cái cây. Theo thời gian, cây ngày càng phát triển. Để có thể đón nắng trời, thực hiện việc quang hợp, “cây” công ty “đè” ra nhiều nhánh cây. Thân cây có thể phát triển theo hình thẳng đứng nhưng cành cây thì có thể tỏa ra nhiều hướng khác nhau. Trong khoa học pháp lý, luật pháp thừa nhận công ty có quyền mở chi nhánh. Trụ sở chính của công ty cũng như thân cây chi có một, nhưng nhánh cây (chi nhánh) thì nhiều. Cũng từ đó, một cách mặc nhiên, chúng ta hiểu rằng chi nhánh là một phần không tách rời của công ty, một bộ phận phụ thuộc cùa công ty. “Cây” công ty mà chết thì “nhánh cây” chi nhánh cũng không thể sống được!
Mỗi loài cây sẽ cho một loại quả nhất định. Cây cam sẽ có trái cam. Là một bộ phận của cây cam, thì nhánh cam không thể sản sinh ra quả quýt! Cũng tương tự, chi nhánh có quyền hoạt động trong phạm vi ngành, nghề công ty kinh doanh mà không được thực hiện các hoạt động khác ngoài phạm vi kinh doanh của “cây” công ty.
Các chi nhánh đều có người đứng đầu, gọi làm Giám đốc chi nhánh. Dù một “cây” công ty có bao nhiêu nhánh đi chăng nữa thì người ta cũng chỉ nhìn vào đó với tư cách là một cái cây mà thôi. Do đó, pháp luật về công ty không có sự phân biệt giữa “cây” công ty nhiều nhánh hay cây ít nhánh, tất cả đều là “cây” và đều chỉ có một người đại diện theo pháp luật mà thôi. Người đại diện đương nhiên cho công ty giống như gốc cây, có quyền điều phôi toàn bộ các vấn đề liên quan đến “cây” công ty từ thân cây cho đến các nhánh cây. Nhánh cây không thể nằm ngoài sự kiểm soát đó. Khi nhánh “ly khai” gốc cây, thì hành vi “vượt rào” ấy sẽ không được pháp luật thừa nhận. Cụ thể, nếu Giám đốc chi nhánh của công ty ký kết các hợp đồng mà chưa được sự chấp thuận của người đại diện theo pháp luật của công ty thì pháp luật về hợp đồng sẽ coi đó là hợp đồng vô hiệu vì người giao kết không có thẩm quyền đại diện.
Với những “cây” công ty nhỏ ít nhánh, thì “gốc” có thể “coi ngó” cho cả thân cây và nhánh cây. Nhưng với những “cây” công ty mà thân cây lớn với rất nhiều nhánh cây, một mình gốc cây phải “coi ngó” cho toàn bộ “cây” công ty là một việc rất khó khăn. Cũng từ đó, phát sinh khả năng san sẻ chửc năng đại diện của “gốc cây” (Giám đốc). Cách thức thực hiện là các Giám đốc (gốc cây) phải ủy quyền cho những điểm nút Giám đốc chi nhánh dửng đầu “các nhánh cây”. Lúc này, các điểm nút Giám đốc “gốc cây” sẽ có quyền “coi ngó” hay đại diện cho “nhánh cây” mà Giám đốc đó đứng đầu. Vỉệc chia sè quyền đại diện cho các Giám đốc chi nhánh thuộc về kỹ thuật quản trị mà không mang tính bắt buộc về mặt pháp lý. Có hai điều cần lưu ý:
Một là, Giám đốc đứng đầu chi nhánh không đương nhiên có quyền đại diện cho chi nhánh mà quyền này chỉ phát sinh khi có sự san sẻ hay ủy quyền của người đại diện của công ty.
Hai là, vì Giám đốc công ty là người duy nhất có quyền đại diện cho công ty nên phạm vi ủy quyền rộng hay hẹp do Giám đốc quyết định; đồng thời, bất cứ lúc nào Giám đốc công ty cũng có quyền hủy việc ủy quyền cho Giám đốc chi nhánh.
Cho nên mặc dù chi nhánh có quyền thực hiện toàn bộ các hoạt động của công ty cũng như nhánh cam có quyền sản sinh ra quả cam, nhưng không vì thế mà suy đoán người đứng đầu cũng đương nhiên có quyền đại diện cho chi nhánh trong phạm vi các công việc mà chi nhánh thực hiện. Vỉệc cung cấp chất dinh dưỡng cho nhánh cam để tạo ra quà cam là chịu sự “điều phối” của gốc cam. Do vậy, nếu không có “sự cho phép” cùa gốc cam thì các điểm nút cũng không thể “đại diện” cho nhánh cam là như vậy.
Trở lại với chuyện chi nhánh ngân hàng mở phòng giao dịch. Giám đốc chi nhánh được sự ủy quyền của Giám đốc công ty trong việc đại diện cho chi nhánh trong phạm vi hoạt động của chi nhánh. Việc mở phòng giao dịch của chi nhánh cũng giống như việc nhánh cây đè ra nhánh con. Nếu đã thừa nhận Giám đốc chi nhánh có quyền đại diện cho chi nhánh, bao hàm cả những nhánh con của nhánh cây thì thiết nghĩ hầu như không có lý do gì cho việc từ chối trên.
Theo nguồn: Phạm Hoài Huấn: Giám đốc chi nhánh có quyền đại diện hay không? Thời báo Kỉnh tế Sài Gòn, ngày 23-6-2011.